Ơn Gọi Của E-và: Làm Mẹ
“Làm Mẹ Các Sinh Linh”
Nói đến Evà, người ta đều biết đó là vị nữ nguyên tổ của loài người. Ðúng thế, theo Thánh Kinh Do Thái Giáo cũng như Kitô Giáo, sau khi hai nguyên tổ loài người là Adong và Evà sa ngã phạm tội mất lòng Thiên Chúa là Ðấng đã tạo dựng nên các vị và cho các vị sống trong vườn địa đường, qua việc các vị ăn trái cây biết lành biết dữ ở giữa vườn là cây bị Ngài cấm, và sau khi các vị cùng với con rắn qủi cám dỗ nữ nguyên tổ lãnh bản án Thiên Chúa tuyên phạt, thì Sách Khởi Nguyên ở đoạn 3 câu 20 ghi lại rằng: “Con người gọi vợ mình bằng tên Evà, vì nàng đã là mẹ của tất cả các sinh vật”.
Thật vậy, nếu ơn gọi của Adong là ơn gọi làm chồng Evà, ở chỗ, cũng theo bộ Thánh Kinh này, trong đoạn 2 câu 24 của cùng Sách Khởi Nguyên: “Con người lìa bỏ cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình”, thì quả thật “Ơn Gọi của Evà là Làm Mẹ Sinh Linh”, tức ơn gọi của Evà không phải chỉ ở tại việc hiến thân cho chồng mình để “cả hai trở nên một xương thịt” (Gn.2:24) mà thôi. Bởi vì, nước không bao giờ chảy ngược thế nào, tình yêu con người cũng phải xuôi chiều như vậy, tức là theo tiến trình tự nhiên phát xuất từ Adong yêu thương gắn bó với Evà để rồi, nhờ được Adong yêu thương, Evà có thể đóng vai trò làm mẹ. Thế nên, bao giờ con người được dựng nên “có nam có nữ” (Gn.1:27) đi ngược chiều hay đi sai lệch với tiến trình ơn gọi hôn nhân do Thiên Chúa Tối Cao vô cùng khôn ngoan xếp định này, họ khó lòng có thể tránh được tai nạn xẩy đến cho mình, như cơn khủng hoảng xã hội ngày nay bắt nguồn từ hôn nhân và gia đình đã chứng thực hết sức rõ ràng. Về vấn đề này, trong bài “Ơn Gọi của Adong: Gắn Bó với Vợ” (trang 104-105) người viết đã nhận định như sau:
- Chính vì ngày nay người ta theo văn hóa hôn nhân “pro choice”, tức chủ trương tôi có quyền chọn ý trung nhân thì tôi cũng có quyền bỏ, có quyền chọn lại, mới xẩy ra tình trạng ly dị và phá sản hôn nhân như ngày nay, và từ đó lây sang tình trạng phá thai khủng khiếp như bây giờ. Hiện tượng ly dị được pháp lý hóa cho thấy hết sức rõ ràng là con người cực kỳ văn minh ngày nay qúa ấu trĩ, không biết chọn lựa gì cả, chọn gì cũng không xong, không được như ý, thay đổi, chóng chán, như trẻ con! Thế nên, tới khi nào con người ý thức được hôn nhân là một ơn gọi, ở chỗ, người bạn đời của mình là do Thiên Chúa chọn cho mình, mình chỉ là người chấp nhận nhau từ Ngài, như Adong đã chấp nhận Evà từ tay Thiên Chúa trong vườn địa đàng như “người nữ Chúa cho ở với tôi”, hôn nhân của con người mới thực sự có ý nghĩa, bền bỉ và hạnh phúc.
Ðúng thế, nếu con người nam nữ sống đời vợ chồng với nhau, đặc biệt trong thời khoa học kỹ thuật tối tân tiến ngày nay, không ý thức hôn nhân là một ơn gọi, thì như thực tế cho thấy, không sớm thì muộn, hôn nhân của họ cũng sẽ trở thành một thứ trò chơi, mà hậu quả là con cái vô tội của họ sẽ trở thành một món đồ chơi.
“Vấn Ðề Sinh Sản”
Tầm quan trọng của việc ý thức ơn gọi hôn nhân liên hệ đến “vấn đề sinh sản” đã được Ðức Phaolô VI nhấn mạnh trong Thông Ðiệp Sự Sống Con Người ở đoạn 7 như sau:
- “Vấn đề sinh sản, giống như mọi vấn đề khác liên quan đến sự sống con người, phải được cứu xét vượt ra ngoài cả những quan điểm riêng rẽ – dù là trật tự sinh lý hay tâm lý, dân số hay xã hội – tức phải được cứu xét theo ý nghĩa của một cái nhìn toàn diện về con người và về ơn gọi của họ, chẳng những ơn gọi tự nhiên và trần thế, mà còn cả ơn gọi siêu nhiên và vĩnh cửu của họ nữa”.
Thế nhưng, ý thức ơn gọi hôn nhân là gì, nếu không phải là nhận biết nguồn gốc thần linh của tình yêu hôn nhân để sống đúng bản chất và sứ mệnh đích thức của tình yêu này. Chính vì thế, trong cùng một bức Thông Ðiệp Sự Sống Con Người, ngay sau khi đề cập đến vấn đề hôn nhân là một ơn gọi, Ðức Phaolô VI đã nhắc lại giá trị của “tình yêu hôn nhân” như sau:
- “Tình yêu hôn nhân biểu tỏ bản chất và cao qúi chân thực của mình khi nó được coi như phát xuất từ nguồn gốc tối cao là Thiên Chúa, Ðấng là tình yêu (x.1Jn.4:8), là ‘ Cha mà mọi gia đình trên trời dưới đất mang tên gọi ‘ (x.Eph.3:15). Thế nên, hôn nhân không phải là kết quả của ngẫu nhiên hay sản vật của một cuộc tiến hóa bởi những năng lực vô thức tự nhiên; nó là một cơ cấu khôn ngoan của Ðấng Hóa Công để thể hiện nơi con người dự án yêu thương của Ngài. Nhờ việc hỗ tương trao tặng bản thân mình cho nhau, xứng hợp và toàn thể, vợ chồng hướng đến một cuộc hiệp thông hữu thể của mình liên hệ đến tầm vóc toàn hảo chung, để hợp tác với Thiên Chúa trong việc sản sinh và giáo huấn các cuộc sống mới” (đoạn 8)…
- “Hôn nhân và tình yêu phối ngẫu, tự bản chất của mình, là để sinh sản và giáo dục con cái. Con cái thật sự là qùa tặng cao cả của hôn nhân và đóng góp rất trọng yếu cho việc an toàn của cha mẹ mình” (đoạn 9).
Với ý thức ơn gọi hôn nhân như thế, trong thực hành, vợ chồng còn cần phải tỏ ra bằng việc làm, nhất là ở việc sinh sản con cái là mục đích chính yếu của hôn nhân và là căn nguyên sâu xa làm nên hôn nhân. Thế nên, theo giòng tư tưởng được bố cục thứ tự hết sức mạch lạc của mình, Thông Ðiệp Sự Sống Con Người tiếp tục diễn đạt ở đoạn 10 về “việc truyền sinh” chân chính thế này:
- “Thế nên, trong việc truyền sinh, cha mẹ không được tự do tiến hành hoàn toàn theo ý mình, như thể họ có thể định đoạt một cách hoàn toàn tự động đường lối xứng hợp phải theo; song họ phải tác động hợp với ý định sáng tạo của Thiên Chúa, được thể hiện ngay nơi bản chất của hôn nhân cũng như của việc làm hôn nhân, và được biểu lộ bằng giáo huấn liên tục của Giáo Hội“.
Tuy nhiên, để áp dụng trọn vẹn và xác đáng ý thức ơn gọi hôn nhân trong việc truyền sinh vào thời điểm hiện nay không phải là một chuyện dễ, như những người làm cha làm mẹ chúng ta hầu như ai cũng cảm thấy. Ðể giải đáp vấn đề ngừa thai xứng hợp với ơn gọi hôn nhân cao cả, Thông Ðiệp Sự Sống Con Người, sau khi tỏ ra thông cảm với các cặp vợ chồng gặp những khó khăn trong việc sinh dưỡng con cái, đã dứt khoát chủ trương của mình ở đoạn 16 như sau:
- “Nếu vậy, một số người có thể đặt vấn đề: vào hoàn cảnh hiện nay, không hợp lý hay sao, trong nhiều trường hợp cần phải sử dụng đến phương pháp ngừa thai nhân tạo, nếu nhờ đó chúng tôi bảo toàn được sự hòa thuận và bình an trong gia đình, cũng như tạo điều kiện tốt hơn cho việc giáo dục những đứa con đã được sinh ra? Về vấn đề này, cần phải trả lời một cách rõ ràng minh bạch như sau: Giáo Hội là người đầu tiên ca ngợi và khuyến khích việc can thiệp sáng suốt vào phận sự được gắn sát với tạo vật có lý trí trước Ðấng Tạo Hóa; thế nhưng, Giáo Hội xác nhận rằng, việc này phải được thực hiện theo sự tôn trọng trật tự được Thiên Chúa thiết lậïp. Bởi thế, nếu có lý do quan trọng trong việc co giãn sinh nở, gây ra do tình trạng thể lý hay tâm thần của vợ chồng, hay những hoàn cảnh ngoại tại, Giáo Hội dạy rằng, bấy giờ cần phải căn cứ vào chu kỳ tự nhiên trong phần hành truyền sinh, để làm việc vợ chồng trong thời kỳ không đậu thai mà thôi, và nhờ cách này mà điều hành việc sinh sản mới không vi phạm đến những nguyên tắc luân lý…”.
Nếu không theo nguyên tắc và đường lối chính đáng hợp với “trật tự được Thiên Chúa thiết lập” để “không vi phạm đến những nguyên tắc luân lý” này, con người sẽ đưa cuộc sống hôn nhân của mình nói riêng, và gia đình của mình nói chung, thậm chí cả xã hội loài người của mình nữa, đến một tình trạng được Thông Ðiệp Sự Sống Con Người tiên báo rất chính xác, như thực tế hiện nay cho thấy, qua đoạn 17 như sau:
- “Có lý để sợ rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng những đường lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi lòng trọng kính nữ giới, và vì không còn để ý tới tình trạng quân bình về thể lý cũng như tâm lý của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của mình, họ không còn là người đồng bạn đáng kính và yêu dấu của mình nữa. Cũng cần xét đến việc trao khí giới nguy hiểm vào tay một thứ chính quyền không còn nghe theo những đòi hỏi luân lý. Ai có thể đổ lỗi cho chính quyền về việc giải quyết những rắc rối của cộng đồng bằng cách dùng những phương tiện được công nhận là hợp pháp cho các cặp vợ chồng để giải quyết những vấn đề gia đình? Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của mình phương pháp này, một khi họ cho là cần thiết? Như thế, con người, trong khi muốn tránh những khó khăn về cá nhân, gia đình hoặc xã hội ngược lại với việc giữ lề luật thần linh, sẽ tiến đến chỗ đặt lãnh vực cá nhân nhất và riêng tư nhất của tình tự hôn nhân vào sự can thiệp thương hại của chính quyền. Kết quả là, nếu không muốn sứ mệnh truyền sinh bị lạm dụng bởi ý muốn buông thả của con người, họ cần phải nhận biết những giới hạn không thể vượt qua đối với khả năng nơi quyền thống trị của con người trên thân xác mình cũng như trên các phần hành của nó; những giới hạn mà không một ai, dù là cá nhân riêng tư hay một người có thẩm quyền, cho rằng mình có quyền qua mặt“.
Thực Tế Phũ Phàng
Qua lời cảnh báo này, Thông Ðiệp Sự Sống Con Người của Ðức Phaolô VI quả thực là một sứ điệp tiên tri cho thời điểm hiện đại. Nếu để ý trong các đoạn Thông Ðiệp được trích dẫn vừa rồi, chúng ta sẽ thấy có 2 điều Ðức Phaolô VI lo ngại chính, liên quan đến việc sử dụng phương pháp ngừa thai nhân tạo không đúng với “trật tự được Thiên Chúa thiết lập” và đã “vi phạm đến những nguyên tắc luân lý”, những điều lo ngại đã trở thành thực tế phũ phàng trước mắt chúng ta ngày nay.
Ðiều lo ngại thứ nhất là: “Có lý để sợ rằng nam nhân, trong việc đi sâu vào việc sử dụng những đường lối ngừa thai trái phép, cuối cùng có thể mất đi lòng trọng kính nữ giới, và vì không còn để ý tới tình trạng quân bình về thể lý cũng như tâm lý của họ, có thể tiến đến chỗ coi họ thuần túy như một dụng cụ hưởng thụ ích kỷ của mình, họ không còn là người đồng bạn đáng kính và yêu dấu của mình nữa”. Ðiều này cho thấy, kính thưa qúi vị, một cách trực tiếp nơi thị trường buôn dâm, vẫn biết loại thị trường này đã có từ trước, song đến nay, thị trương mãi dâm này lại càng ngày càng đầy giẫy và tinh vi khêu gợi hơn nơi những phim ảnh, hình ảnh, hộp đêm phơi bầy phụ nữ khỏa thân để mua vui cho nam giới, nhất là nơi một số nước bên Á Châu và Úc Châu đang làm ngơ trước dịch vụ du lịch mua dâm. Sự kiện khinh thường xác thể phụ nữ này còn phơi bầy cách gián tiếp qua sự kiện ly dị mỗi ngày một tăng, nhất là ở các nước tân tiến Âu Mỹ, ở một môi trường con người chỉ chạy theo tiện nghi vật chất hơn là trọng tình trọng nghĩa, một môi trường hưởng thụ theo cá nhân chủ nghĩa hơn là phục vụ cho tha nhân cộng đồng, một môi trường cạnh tranh kinh tế lợi lộc và chính trị chủ quyền hơn là tinh thần hy sinh bỏ mình v.v.
Ðiều lo ngại thứ hai là: “Ai sẽ ngăn cản được các nhà cầm quyền khỏi chấp nhận phương pháp ngừa thai mà họ cho rằng hiệu nghiệm nhất, ngay cả khỏi việc họ áp đặt lên dân chúng của mình phương pháp này, một khi họ cho là cần thiết?” Ðã không xẩy ra đúng như thế hay sao, riêng luật pháp ở Hoa Kỳ đã cho phép phá thai vào năm 1973, tức sau bức Thông Ðiệp này 5 năm. Ðiển hình nhất là Hội Nghị về Dân Số ở Cairô nước Ai Cập năm 1994 bốn năm trước đây, Năm Quốc Tế Gia Ðình do Liên Hiệp Quốc tổ chức, một hội nghị muốn triệt để phát động phương pháp ngừa thai nhân tạo để kiểm soát dân số thế giới, đến nỗi, nếu không bị hai khối Công Giáo và Hồi Giáo cực lực phản chống một cách hết sức nghiêm chỉnh và kịch liệt, thì phụ nữ trên thế giới nói chung, và ở các nước chậm tiến hay đang tiến nói riêng, vì ngay lành hay dù không muốn, cũng đã phải tuân theo một thể chế quốc tế hóa trong việc hạn chế sinh sản hoàn toàn vô nhân đạo và phản luân lý mất rồi.
- “Ở một xã hội mà người mẹ có thể sát hại con mình thì còn gì người ta lại không dám hủy hoại. Một đất nước giết hại những trẻ em còn trong bụng mẹ – những con người được tạo tác để sống và để được yêu thương, những tạo vật được dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa – thì đất nước đó là một đất nước bần cùng nhất“.
Mẹ Têrêsa Calcutta đã suy luận và tuyên bố như thế.
Thật vậy, cứ đà này, thế giới chúng ta hiện sống đang ở trên đà lao mình xuống hố diệt vong, với nhân số càng ngày càng suy giảm tới mức không thể nào lấy lại được nữa. Như các cuộc nghiên cứu gần đây cho thấy, hầu hết dân số trên cả thế giới được phát triển là do người ta sống lâu hơn là sinh nhiều hơn. Số sinh đã giảm sút hẳn tại Bắc Mỹ, Mỹ Châu La Tinh, Aâu Châu và Ðông Á. Theo chiều hướng này thì Aâu Châu sẽ hụt dân số vào năm 2005; mức độ thụ thai của các nước tân tiến sẽ rơi xuống dưới mức độ bù trừ vào năm 2015, và cả thế giới sẽ hụt dân số vào năm 2045. Phần trăm của dân số thế giới tăng hiện nay ở mức thấp nhất trong lịch sử và tiếp tục giảm sút mỗi năm…
Ngoài ra, còn một dấu chứng nữa báo hiệu tình trạng con người đang trên đà diệt vong là việc tràn lan các chứng bệnh bị nhiễm lây theo đường sinh dục, theo tiếng Mỹ là sexually transmitted diseases. Thật vậy, không kể hội chứng liệt kháng, hay Aids bên tiếng Mỹ và Siđa như người Việt chúng ta vẫn quen gọi, một hội chứng đã lan tràn khắp thế giới mà khoa học tân tiến ngày nay vẫn không thể đối phó nổi, thì riêng tại Mỹ quốc này, theo các tài liệu của Ðại Học Chuyên Viên Sản Khoa Hoa Kỳ, của bác sĩ Joe Mclllhaney Jr. trong cuốn Safe Sex do Baker Book House xuất bản năm 1991, và của Các Trung Tâm Kiểm Soát Bệnh Tật ở Atlanta, tiểu bang Georgia, cho biết: Các bệnh truyền nhiễm theo đường sinh lý là những chứng bệnh thịnh hành nhất hiện nay, chỉ thua có cảm cúm thông thường mà thôi; 1 trong 5 người Mỹ hiện nay đang mắc phải chứng bệnh này; 12 triệu trường hợp bắt đầu bị bệnh này được tường trình hằng năm, tức 33 ngàn vụ mỗi ngày; 45 triệu người Hoa Kỳ bị nhiễm chứng bệnh này không thể chữa trị.
Cứu Vãn Tình Theá
Vậy, để cứu vãn tình trạng băng hoại gia đình gây ra bởi cuộc khủng hoảng tình yêu hôn nhân mà hậu quả, ngoài các chứng bệnh truyền nhiễm theo đường sinh lý nguy tử, là chính những thai nhi vô tội bị chết oan uổng, hội dòng Thừa Sai Bác Aùi của Mẹ Têrêsa Calcutta đã thực hiện “chương trình kế hoạch hóa theo phương cách tự nhiên” cho các cặp vợ chồng, và chương trình “đừng phá thai” qua việc nhận nuôi trẻ em bị bỏ rơi sau khi sinh ra.
Về “chương trình kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên”, Mẹ Têrêsa cho biết thành quả về sinh lý, về cả sinh lý lẫn tâm lý, và cho chung xã hội, như sau. Thành qủa về sinh lý: “Có ba ngàn gia đình tham dự chương trình kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên thì có khoảng 95% đã thành công. Tôi thiết nghĩ nếu chúng ta có thể mang phương pháp tự nhiên này truyền dạy cho tất cả mọi quốc gia, và nếu tất cả mọi người nghèo có thể học biết phương pháp này, thì chắc sẽ hòa bình hơn, yêu thương nhau hơn trong các gia đình”. Thành quả về cả sinh lý lẫn tâm lý: “Nhiều người đã nói với tôi rằng: ‘ Nhờ việc học hỏi để kế hoạch hóa gia đình theo đường lối tự nhiên mà tình yêu của chúng tôi và sự kính trọng nhau nơi chúng tôi khá hơn trước’ . Các Nữ Tử Bác Aùi của hội dòng chúng tôi đã hướng dẫn các gia đình, cho cả vợ lẫn chồng, việc kế hoạch hóa theo phương pháp tự nhiên, và họ đã cho chúng tôi biết họ cảm thấy khỏe mạnh hơn trước. Họ bày tỏ rằng ‘chúng tôi hiện nay khỏe lắm. Thêm vào đó, chúng tôi lại còn biết tùy nghi có con theo ý mình nữa'”. Thành quả cho chung xã hội: “Nơi nào chính quyền cũng lo ngại về vấn đề khủng hoảng nhân số… Chúng tôi đã giúp cho chính phủ Aán Ðộ, đặc biệt ở nguyên tại Calcutta, trong 10 năm qua giảm tỉ lệ dân số hơn cả triệu người. Ðó là lý do tại sao chính quyền Aán Ðộ đã hoàn toàn công nhận giá trị của việc kế hoạch hóa gia đình theo phương pháp tự nhiên”.
Về chương trình “đừng phá thai” Qua việc nhận nuôi trẻ em bị cha mẹ bỏ rơi sau khi sinh ra, Mẹ Terêsa cũng lên tiếng kêu gọi như sau: “Hôm ấy, có một phụ nữ người Aán đến chia sẻ với tôi về nỗi khổ tâm dằn vặt mà bà đang trải qua. Người đàn bà này rất giầu, có đủ mọi thứ, song lại hết sức buồn đau. Bà tức tưởi nói: ‘Mẹ ơi, tôi vừa trông thấy một em bé độ 8 tuổi chơi ở ngoài sân. Khi thấy đứa bé kia tự nhiên tim tôi nhức buốt, lương tâm cứ dày vò cắn rứt trong tôi, vì trước đây tám năm tôi đã phá thai. Thưa Mẹ, nếu không phá thai thì giờ đây tôi đã có một đứa con cũng lên 8 tuổi rồi’ Qúi vị thân mến, nếu qúi vị không muốn nuôi trẻ em thì hãy đem chúng đến cho chúng tôi. Tôi muốn nhận chúng. Tôi sẽ tìm cho chúng một mái ấm để yêu thương và dưỡng nuôi chúng. Tôi chỉ xin qúi vị một điều là đừng giết người. Ðừng hủy hoại. Ðừng sát hại…”
Không phải một mình Mẹ Têrêsa cho chúng ta biết thành quả tốt đẹp và hầu như mỹ mãn của phương pháp ngừa thai nhân tạo, mà còn cả các bậc thức giả đương thời nữa. Chẳng hạn, theo tác giả Mercedes A. Wilson, trong cuốn “Love and Family” do Ignatius Press ở San Francisco xuất bản năm 1996, qua bản phân tích mức độ hiệu nghiệm của các phương pháp ngừa thai nhân tạo với Ovulation Method là phương pháp tự nhiên căn cứ theo chu kỳ trứng rụng, thì kế hoạch hóa gia đình theo đường lối tự nhiên, Natural Family Planning, như phương pháp trứng rụng, đã được thử nghiệm gắt gao trong hai thập niên qua, cho thấy mức công hiệu tối đa, lên đến 98-99%. Mức độ thành qủa này qua mặt cả mức độ hiệu nghiệm của tất cả mọi y dụng được phát minh ra để phá thai hay ngừa thai nhân tạo.
Như thế, với “Chân Lý Rạng Ngời” của Thông Ðiệp Sự Sống Con Người do Ðức Phaolô VI ban hành cách đây 30 năm, và với kinh nghiệm sống động hết sức thực tế của Mẹ Têrêsa Cacultta trong việc hướng dẫn để áp dụng phương pháp ngừa thai tự nhiên từ đó tới nay, thì chỉ có những ai không chịu thử hay ngại áp dụng, hoặc không thể làm chủ được mình, phương pháp hiệu nghiệm này mới không có kết quả mà thôi. Trái lại, nếu đã có tinh thần sống ơn gọi hôn nhân, thì dù việc sử dụng phương pháp này chẳng may có không thành công, nơi 1 hay 2 hoặc 5 phần trăm trong số họ đi nữa, họ cũng vẫn vui lòng chấp nhận sự sống mới do Thiên Chúa ban cho họ.
Tóm lại, nếu các cặp vợ chồng biết sống đạo trong đời sống hôn nhân, tức thực sự và hết sức sống ơn gọi hôn nhân cao cả của mình, chắc chắn họ sẽ không bị cuốn hút đến bật gốc nhân phẩm của mình trong cơn lốc “văn hóa tử vong”. Nhận thức như là một niềm xác tín này của tôi có thể được chứng thực qua cuộc nghiên cứu được bà Mercedes Arzú Wilson là chủ tịch kiêm sáng lập Hội Gia Ðình của Người Mỹ và Hội Thế Giới cho Gia Ðình, thống kê cho thấy như sau: Các cặp lấy nhau trước tòa đời thì một nửa bỏ nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội thì 1 phần 3 bỏ nhau; các cặp lấy nhau theo Giáo Hội và cùng nhau tham gia sinh hoạt nhà thờ thì 1 phần 50 bỏ nhau; và các cặp lấy nhau theo Giáo Hội rồi cùng nhau tham dự Thánh Lễ và cầu nguyện chung thì 1 phần 1429 bỏ nhau.