Một thoáng nhìn về Giáng Sinh
Không chỉ phố đã lên đèn[1], nhưng mọi nẻo đường đến từng con hẻm và khắp thôn quê đang dần rực sáng. Bầu khí giáng sinh đến hẹn lại lên, đang lan tỏa và ngập tràn khắp nơi trên quả địa cầu, nơi mọi ngóc ngách, mọi ngôi thánh đường cũng như nơi tâm hồn mỗi người. Khắp nơi đang ngân vang những bài thánh ca quen thuộc từ sôi động đến sâu lắng về Giáng Sinh. Những hang đá với đủ kiểu đủ loại, những cây thông, những ngôi sao truyền thống hay cách tân, những ông già Noel… đèn điện và cờ quạt phấp phới cùng hòa quyện để cùng tạo nên một bầu khí “không lệch vào đâu” của một mùa Giáng Sinh đang tràn ngập khắp hoàn cầu. Giữa cái lạnh của mùa đông, giữ những vấn đề của kiếp nhân sinh, Lễ Giáng sinh dường như khiến không khí như ấm lại và con người như xích gần lại với nhau hơn. Những cánh thiệp, những món quà, cùng bao lời chúc và sự quan tâm đầy ý nghĩa và yêu thương giúp sưởi ấm làm làm nóng lại tâm hồn bao người. Nhờ đó, mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người tiếp tục mang bình an và làm cho thế giới bớt đi cảnh u ám của chiến tranh, sự lạnh lẽo của nghèo đói, cũng như xoa dịu và chữa lành biết bao vấn đề đã, đang và sẽ tiếp tục làm đảo lộn cuộc sống, nhất là làm cho ước mơ về một nền hòa bình và sự bình an đích thực cho nhân loại vẫn mãi là một giấc mơ chưa tròn, bởi giấc mơ ấy chỉ nên trọn nới Đức Ki-tô, Hoàng tử Hòa Bình. Dẫu vậy, Giáng sinh không chỉ còn là một ngày đại lễ mang tính tôn giáo, các riêng Ki-tô giáo, nhưng từ lâu đã trở thành một ngày hội mang tầm quốc tế và trở thành một nét văn hóa độc đáo của toàn thế giới.
Ngày nay, số người chưa biết hoặc không biết đến Giáng sinh có lẽ chỉ là một tỉ lệ rất rất nhỏ. Đó là một giá trị mang tính Ki-tô giáo và là niềm tự hào không thể phủ nhận, nhất là với những người có đức tin. Thế nhưng, cũng chính vì tầm ảnh hưởng quá lớn ấy mà cái biết của nhiều người về đại lễ này đôi khi chỉ dừng lại ở cái biết hết sức mơ hồ, hay đơn thuần của một ngày hội mang tính thế tục, mà quên đi chiều kích mầu nhiệm và ý nghĩa tâm linh sâu sắc của mầu nhiệm Nhập Thể. Cũng thế, cái biết của không ít người, mà trong đó có cả các tín hữu chỉ dừng lại ở bầu khí của ngày lễ hội, là dịp để đi chơi, để tiêu sài hay để ăn uống; cùng với đó là cái biết về một số biểu tượng, những con số hay những băng rôn… những hang đá to đẹp hoặc nhưng đêm hoan ca thật hoành tráng, những món quà thật giá trị mà thôi. Đó cũng là một điều đáng lo ngại và thách đố cho Giáo hội và những người có niềm tin, nhất là giữa một thế giới ngày càng tục hóa và muốn biến Giáng Sinh trở thành một ngày hội hoàn toàn mang tính thế tục.
Chính vì thế, khi không khí Giáng sinh đang ngập tràn và gần kề, thiết tưởng việc ôn lại và cùng nhau tìm hiểu ý nghĩa, cũng như nhìn nhận một số vấn đề liên quan đến đại lễ Chúa Giáng Sinh, mừng kính Mầu Nhiệm Ngôi Hai Thiên Chúa làm người, cũng là dịp trước là để những anh chị em tôn giáo bạn có cái nhìn đúng đắn về Giáng Sinh, sau là để chính người Công giáo và người Ki-tô giáo không chỉ biết mà phải hiểu ý nghĩa đích thực của Mầu nhiệm Nhập Thể. Qua đó, nhờ sự hiểu biết đích thực, và toàn diện hơn, mỗi người sẽ yêu mến và ý thức được sự cao cả của Tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, khi cho Ngôi Hai Nhập Thể để cứu độ nhân loại. Từ đó, mỗi người sẽ luôn mang nơi mình tâm thức đúng đắn và sốt sắng nơi chiều sâu, để tôn trọng và mừng kính Đại lễ cho xứng hợp. Đồng thời, biết chắt lọc, để giữ lại và phát huy những giá trị giúp nuôi dưỡng và tăng triển đời sống đức tin, nhất là để loan báo Tin Mừng. Bên cạnh đó, loại bỏ và hạn chế những gì là tục hóa, tầm tường, rườm rà không cần thiết, nhất là những thứ tục hóa đang gặm nhấm và làm biến dạng Giáng Sinh và khiến con người quên mất hay rời xa ý nghĩa tôn giáo đích thực của Đại lễ này.
1. Nguồn gốc và lịch sử
“Ngôi Lời đã làm người và ở giữa chúng ta” (Ga 1,14) là lời xác quyết của Thánh Gioan Tông đồ về mầu nhiệm cao cả mà chúng ta mừng kính mỗi Mùa Giáng sinh. Theo đó, “chúng tôi đã được nhìn thấy vinh quang của Người, vinh quang mà Chúa Cha ban cho Người, là Con Một đầy tràn ân sủng và sự thật” (Ga 1,14). Cũng vậy, trình thuật Giáng Sinh được thánh sử Luca ghi lại trong Tin Mừng cũng phần nào hé lộ cho chúng ta về mầu nhiệm này. Để rồi mỗi dịp Giáng sinh, trên môi miệng và trong tâm trí nhiều tâm hồn lại vang lên “Vinh danh Thiên Chúa trên trời bình an dưới thế cho người thiện tâm” (Lc 2,14). Một mầu nhiệm cao cả vượt khả năng hiểu biết của trí khôn con người, một Thiên Chúa cao cả, quyền năng nhưng lại chấp nhận thân phận làm người và ở giữa chúng ta để ứng nghiệm mọi lời Kinh Thánh và ngôn sứ, cũng như để hoàn tất chương trình tình yêu của Chúa Cha. Nhờ đó, con người được cứu độ, được giải thoát khỏi ách nô lệ tội lỗi và nhất là được trở nên con Thiên Chúa.
Như vậy, Lễ Chúa Giáng Sinh, hay còn gọi là Noel, là ngày kỉ niệm biến cố Đức Giê-su, “Đấng Emmanuel – Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23), được sinh ra tại Bê lem. Đó là biến cố trọng đại nhưng cũng thật nhiệm lạ, với đầy nghịch lý, Con Thiên Chúa sau khi nhập thể trong lòng Đức trinh nữ Ma-ri-a qua lời “Fiat”, được hạ sinh không phải trong khách sạn hay trong bệnh viện đầy đủ tiện nghi. Trái lại, Đức Giê-su Ki-tô, Con Thiên Chúa, tuy cao cả uy quyền nhưng ngài đã chấp nhận hạ sinh ra nơi máng cỏ đơn hèn, bước vào thế giới, sống như con người để thực hiện và hoàn tất chương trình cứu độ toàn thể nhân loại. Như thế, giáng sinh chính là ngày sinh nhật của Chúa Giê-su. Dẫu vậy, đối với Phụng vụ Công Giáo, thì Giáng sinh là một trong năm mùa Phụng vụ và là mùa ngắn nhất của chu kì năm phụng vụ. Mù Giáng Sinh bắt đầu bằng biến cố Chúa giáng sinh, khi Ngôi Hai được sinh hạ nơi máng cỏ và kết thúc vào lễ Chúa Giê-su chịu Phép rửa, khi Chúa Giê-su bắt đầu công cuộc rao giảng Công khai. Như thế, mùa Giáng sinh diễn lại cuộc sống ẩn dật của Chúa Giê-su từ khi Ngài được hạ sinh (Lc 2, 1-20), thời thơ ấu với biến cố chịu cắt bì và tiến dâng cùng với biến cố lạc trong đền thờ khi mưới hai tuổi (Lc 2, 21-52) cho tới biến cố chịu Phép rửa tại sông Gio-đan (Lc 3, 21-22), trước khi Ngài bắt đầu sứ vụ công khai, sau 30 năm sống ẩn dật ở Nazareth và “và hằng vâng phục các ngài” (Lc 2,52).
Mặc dù không rõ tháng và ngày sinh của Chúa Giêsu, nhưng Giáo hội vào đầu thế kỷ thứ tư đã ấn định ngày sinh của Người là 25 tháng 12. Điều này tương ứng với ngày Đông chí trên lịch La Mã. Hầu hết các tín đồ Kitô giáo ăn mừng vào ngày 25 tháng 12 theo lịch Gregory, lịch này đã được áp dụng gần như phổ biến trong lịch dân sự ở các nước trên thế giới. Tuy nhiên, một số giáo hội Kitô giáo Đông phương tổ chức lễ Giáng sinh vào ngày 25 tháng 12 của lịch Julius cũ hơn, hiện tương ứng với ngày 7 tháng 1 trong lịch Gregorius. Đối với Kitô hữu, niềm tin rằng Thiên Chúa đến thế gian trong hình hài của con người để cứu chuộc cho tội lỗi của nhân loại, chứ không cần phải biết ngày tháng năm sinh chính xác của Giêsu, được coi là mục đích chính trong kỷ niệm ngày Giáng sinh.[2]
Điều này được Đức thánh cha Phan-xi-cô, trong buổi tiếp kiến chung sáng thứ tư 23-12-2009 trong đại thính đường Phaolô VI, đã tái xác quyết về nguồn gốc và ý nghĩa của lễ Giáng Sinh. Theo ngài, thật ra Năm Phụng Vụ của Giáo Hội đã không phát triển với biến cố Chúa Kitô sinh ra, mà từ niềm tin vào sự phục sinh. Vì thế ngày lễ cổ xưa nhất của Kitô giáo không phải lễ Giáng Sinh mà là lễ Phục Sinh; sự phục sinh của Chúa Kitô thành lập đức tin Kitô và là nền tảng của việc loan báo Tin Mừng làm nảy sinh ra Giáo Hội. Như vậy là tín hữu Kitô có nghĩa là sống một cách phục sinh, để cho mình được lôi cuốn vào trong năng động nảy sinh từ bí tích Rửa Tội và dẫn đưa tới chỗ chết đi cho tội lỗi và sống với Thiên chúa (x. Rm 6,4).
Người đầu tiên khẳng định rõ ràng rằng Chúa Giêsu sinh ra ngày 25 tháng 12 là Hyppolito thành Roma, trong tác phẩm chú giải sách ngôn sứ Daniel viết ra vào năm 204. Rồi vài nhà chú giải kinh thánh ghi nhận rằng: trong ngày đó, người ta cũng mừng lễ Thánh Hiến đền thờ Giêrusalem do Macabây thành lập năm 164 trước Chúa Kitô. Sự trùng hợp ngày ấy có nghĩa là với Chúa Giêsu xuất hiện như là ánh sáng của Thiên Chúa trong đếm tôi, Thiên Chúa đến trên trái đất này và việc thánh hiến đền thờ được thực hiện thật sự.
Trong Kitô giáo, lễ Giáng Sinh đã có hình thái vĩnh viễn vào thế kỷ thứ IV, khi nó thay thế lễ của “Mặt trời không thể chiến thắng được” của người Roma, và như thế nó minh nhiên rằng: biến cố Chúa Kitô sinh ra là chiến thắng của ánh sáng thật trên bóng tối của sự dữ và tội lỗi. Tuy nhiên, bầu khí thiêng liêng chung quanh lễ Giáng sinh đã phát triển vào thời Trung Cổ, nhờ thánh Phanxicô thành Assisi, là người đã say mê con người Giêsu, Thiên Chúa ở cùng chúng ta một cách sâu đậm.[3]
Cũng theo Đức thánh cha, đêm diễn tả lại một cách sống động biến cố Chúa Giêsu sinh ra trong hang đá tại Greccio đã góp phần phổ biến truyền thống giáng sinh hay đẹp nhất là hang đá. Thật thế, nó đã tái trao ban cho Kitô giáo sự sâu đậm và vẻ đẹp của lễ Giáng Sinh, và giáo dục Dân Thiên Chúa tiếp nhận ý nghĩa đích thật nhất, sự nồng ấm đặc biệt của nó và yêu thích thờ lạy nhân tính của Chúa Kitô. Việc cử hành lễ Giáng Sinh như vậy cũng cho đức tin Kitô một chiều kích mới. Lễ Phục Sinh chú ý tới quyền năng của Thiên Chúa chiến thắng cái chết, khai mào sự sống mới và dậy hy vọng vào thế giới sẽ đến. Thánh Phanxicô và hang đá minh nhiên tình yêu, sự khiêm hạ và lòng nhân từ của Thiên Chúa, tự tỏ hiện cho con người trong biến cố nhập thể, và dậy họ một kiểu sống và yêu thương mới[4].
2. Ý nghĩa của Giáng Sinh
Hằng năm, ngay khi bắt đầu bước vào mùa Vọng, nhiều tín hữu hân hoan hướng về việc cử hành ngày lễ Giáng sinh. Nhưng đã có bao giờ chúng ta thắc mắc: Ý nghĩa của lễ Giáng sinh là gì?
Đối với nhiều người, Giáng sinh có nghĩa là những bữa ăn thịnh soạn, vui vẻ với gia đình và bạn bè; là dịp để nhìn ngắm những hang đá với ánh điện đủ mầu sắc; để hát những bài thánh ca đặc trưng tuyệt vời; để trao đổi quà tặng. Và đối với một số người quảng đại hơn, Giáng sinh còn có nghĩa là phục vụ bữa ăn cho người nghèo; là đi thăm các em cô nhi, những người già neo đơn, những bệnh nhân trong bệnh viện…[5]
Tuy nhiên, nếu chỉ nhìn Giáng Sinh với ý nghĩa như thế thì chưa đủ, bởi ý nghĩa đích thực của Lễ Giáng Sinh là thời gian Giáo hội hướng tới một Mầu nhiệm cao cả, đó là mầu nhiệm Nhập Thể, nơi Con Thiên Chúa xuống thế làm người để cứu độ nhân loại, cũng như hướng tới niềm hy vọng ngày Chúa sẽ trở lại trong vinh quang trong trời mới đất mới. Do đó, lễ Giáng sinh không phải là kết thúc, mà là sự khởi đầu, vì chúng ta vẫn phải hoàn thành công trình cứu chuộc nơi chính mình.[6] Ở đây, người viết sẽ tìm hiểu phần nào ý nghĩa của Lễ giáng sinh dưới hai khía cạnh về mặt tôn giáo và văn hóa xã hội.
2.1. Về mặt tôn giáo
a. Mầu nhiệm của Tình yêu
Giáng sinh là thời gian Hội Thánh đào sâu và cử hành mầu nhiệm Nhập Thể, một trong ba mầu nhiệm lớn của đạo Công Giáo. Mầu nhiệm này diễn tả tình yêu cao cả Thiên Chúa dành cho con người khi cho Con Một của mình nhập thể trong cung lòng đức Maria và làm người .Tình yêu cao cả ấy được thánh Gioan diễn tả cách tuyệt vời: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một để ai tin vào con của người thì khởi phải chết nhưng được sống muôn đời”(Ga 3,16). Đó cũng chính là ý nghĩa mà lễ Giáng Sinh nhắm tới. Qua đó, Lễ Giáng Sinh với mầu nhiệm Nhập thể đã diễn tả một tình yêu nhiệm lạ mà Thiên Chúa dành cho nhân loại.
Thánh Công đồng Vaticano II trong các văn kiện của mình đã gọi mầu nhiệm này là mầu nhiệm cao siêu.[7] Theo đó, “mầu nhiệm về con người chỉ thực sự được sáng tỏ trong mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể”[8]. Mầu nhiệm cao siêu này làm nổi bật vai trò của Chúa Con khi “Chúa Giê-su Ki-tô được sai xuống thế làm trung gian đích thực giữa Thiên Chúa và nhân loại”.[9]
Không những thế, Giáng sinh là biến cố Thiên Chúa đến với con người không phải trong một tư cách của một vị vua uy quyền, nhưng đến trong tư cách của một Hài Nhi bọc tã nằm trong máng cỏ, không phải trong sự giàu sang phú quý mà lẽ ra Ngài đáng được hưởng, nhưng trong sự hèn mọn nghèo khó của một hang bò lừa, trong một gia đình đơn sơ đến lạ lùng. Tất cả những điều đó muốn nói lên tình yêu vô bờ mà Thiên Chúa dành cho con người mọi nơi mọi thời, một tình yêu nhưng không và vô tận. Một Thiên Chúa yêu con người không chỉ chấp nhận cúi xuống đến với con người, nhưng còn liều lĩnh chấp nhận thân phận như con người, một con người nhỏ bé nghèo hèn, để chung phận và cảm thông cách thật nhất kiếp nhân sinh để cứu độ và đưa con người về với Thiên Chúa Cha. “Điều đó làm ta suy nghĩ. Hình tượng và thông điệp của Đức Giê-su Ki-tô làm đảo lộn mọi giá trị. Từ lúc sinh ra, Ngài đã không ở trong phạm trù quan trọng và quyền lực của người đời. Nhưng chính cái không quan trọng và yếu đuối này lại là sức mạnh đích thực quyết định mọi thứ…”[10].
Tình yêu Thiên Chúa qua Mầu nhiệm Nhập Thể là một tình yêu vượt khỏi khả năng hiểu biết của con người. Chính vì thế, Nhập thể không phải là một vấn đề của tình yêu để có thể mổ xẻ và giải quyết với khả năng của lý trí, nhưng Nhập thế là một mầu nhiệm cao siêu chỉ có thể hiểu được phần nào nhờ niềm tin và mạc khải của Thiên Chúa mà thôi. Đó cũng chính là điều mà G. Marxel diễn tả khi phân biệt vấn đề và huyền nhiệm.[11]
Huyền nhiệm này được Đức cha Giuse Đinh Đức Đạo, người đã đi gần hết cuộc đời, nhất là đời dâng hiến, cũng như phải chìm sâu trong chiêm niệm và kinh nghiệm tận máu huyết mới có thể cảm nghiệm được “chút chút” tình yêu cao cả ấy, nhất là qua mầu nhiệm Nhập Thể khi Ngôi Hai xuống thế làm người. Đối với ngài, một Thiên Chúa chấp nhận thân phận làm người là điều vượt quá sức tưởng tượng của con người. Để rồi, sau khi trải nếm được “chút chút” tình yêu ấy, trong những chuyến thăm, mỗi thánh lễ và trong đời mục vụ của mình, đức cha luôn tâm niệm, sống và truyền cảm hứng cho người khác cũng cảm nghiệm và sống tình thần của tình yêu với Thiên Chúa mà Ngài gọi là “Tình yêu hôn ước”.[12]
Cũng thế, Tình yêu huyền nhiệm ấy làm nổi bật tình yêu nhưng không của Thiên Chúa dành cho con người. Thiên Chúa, kẻ si tình và yêu con người cách “điên dại” vẫn tiếp tục yêu và mãi yêu con người dù họ bất trung và bội phản. Đức thánh cha Phan-xi-cô đã diễn tả rất hay về ý nghĩa của tình yêu nhiệm lạ này: “Sức mạnh của chúng ta, sự yếu đuối của chúng ta, chỉ có thể được giải quyết trước hang đá, trước Chúa Giêsu: Chúa Giêsu từ bỏ tất cả, Chúa Giêsu nghèo khó; nhưng luôn với cách thế gần gũi, cảm thông và dịu dàng. Thiên Chúa đã tìm ra phương cách để thu hút chúng ta dù cho chúng ta thế nào: bằng tình yêu. Không phải là một tình yêu chiếm hữu và ích kỷ, như tình yêu của con người mà thật không may, thường là như thế. Tình yêu của Thiên Chúa là món quà thuần khiết, là ân sủng thuần khiết, là tất cả và chỉ dành cho chúng ta, vì lợi ích của chúng ta. Và vì thế Người thu hút chúng ta, bằng tình yêu nhưng không và mạnh mẽ của Người. Bởi vì khi chúng ta nhìn thấy sự đơn sơ này của Chúa Giêsu, chúng ta cũng vứt bỏ vũ khí kiêu ngạo và đến đó, khiêm nhường, xin ơn cứu độ, xin ơn tha thứ, xin ánh sáng cho đời mình, để có thể tiến bước. Đừng quên ngai vàng của Chúa Giêsu là máng cỏ và thánh giá; đây là ngai vàng của Chúa Giêsu.”[13]
Tóm lại, nếu nhìn ý nghĩa mầu nhiệm cao cả ấy dưới nhãn quan của tình yêu Thiên Chúa, chúng ta có thể xác tín Thiên Chúa yêu con người đơn giản vì Ngài là Tình yêu. Ngài sẽ không còn là Thiên Chúa nếu Ngài không yêu. Cũng thế, con người chỉ hiện hữu khi có tình yêu và được yêu, nếu Thiên Chúa không yêu con người con người không thể thể hiện hữu và sẽ trở về hư vô. Cũng vậy, con người không thể yêu thương nhau nếu không có tình yêu Thiên Chúa. Nhờ tình yêu, Thiên Chúa qua Đức ki-tô sẽ nâng con người lên địa vị làm con Thiên Chúa (Capax Dei) và để toàn thể nhân loại và vũ trụ được giao hòa với Ngài.
b. Hướng tới đỉnh đồi Gôn-gô-tha
Trong khi trình bày về nguồn gốc lễ giáng sinh, Đức Hồng y Carlo M. Martini đã có những suy tư rất sâu sắc. Theo ngài, “đại lễ Ki-tô giáo thời sơ khai không phải là Lễ Giáng Sinh, nhưng là lễ Phục sinh, kính nhớ cái chết và sự phục sinh của Chúa Giê-su…Lễ phục sinh không chỉ mừng sự phục sinh của Chúa Giê-su, nhưng là mừng biến cố cứu độ với tính cách là một toàn thể… Như thế, lễ Giáng Sinh mà chúng ta mừng kính vào ngày 25 tháng 12 và gọi là lễ Giáng Sinh có nguồn gốc là một lễ hướng đến sự kết thúc cảu thế kỉ thứ ba, cũng mừng kính tianf thể mầu nhiệm Chúa Ki-tô, và không chỉ việc Chúa Giê-su sinh ra trong lịch sử. Việc mừng kính sinh nhật của Chúa Giê-su là khởi điểm của toàn thể mầu nhiệm Đức Ki-tô…” [14]
Như thế, mọi mầu nhiệm và mọi biến cố trong cuộc đời của Đức Giê-su phải luôn quy hướng về đỉnh đồi Gôn-gô-tha qua mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Đức Ki-tô. Mầu nhiệm Khổ nạn và Phục sinh là mầu nhiệm nền tảng và quan trọng nhất của đức tin Ki-tô Giáo. Nhờ cuộc khổ nạn và Phục sinh, mầu nhiệm Nhập thể nên trọn vẹn và qua đó, công trình cứu độ của Thiên Chúa được hoàn tất. Do đó, mầu nhiệm Nhập thể luôn phải hướng tới sự giải thoát, nghĩa là hướng tới ơn cứu độ, nơi tất cả được hoàn tất trong mầu nhiệm tử nạn và phục sinh. Như thế, mầu nhiệm Nhập thể sẽ không tròn đầy ý nghĩa nếu không hướng tới đỉnh đồi Gôn-gô-tha. Theo đó, mỗi khi cử hành và mừng kính lễ Giáng Sinh, Giáo hội luôn nhắm tới việc hoàn tất chương trình cứu độ nơi Thập giá và qua sự phục sinh của Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa là người. Nơi đó, nhân loại được kín múc sức sống dồi dào, vĩnh cửu, nhất là được trở nên con Thiên Chúa và đi vào mối dây hiệp thông với chính Thiên Chúa Ba Ngôi.
Tóm lại, Giáng sinh tái định hướng chúng ta về những khả năng vô biên của ơn cứu độ được tạo ra cho chúng ta bằng việc Ngôi Lời Thiên Chúa đến trong lịch sử chúng ta, nếu chúng ta mở lòng mình ra. Giáng sinh là về việc “dành chỗ” cho Chúa đến. Cơ hội này được trao ban cho sự tự do của chúng ta. Nó phụ thuộc vào việc loại trừ hay đón nhận mà thôi[15].
c. Dấu chỉ sự hiệp hành
Những trang đầu sách Sáng Thế là bức tranh đẹp nhất về sự hiệp hành giữa Thiên Chúa và con ngời, cũng như với mọi thụ tạo. Thế nhưng tội lỗi đã phá vỡ và làm vấy bẩn hoàn toàn bức tranh của sự hiệp hành ấy, để rồi sự ngăn cách và rạn nứt do tội lỗi gây ra, mà tự mình, con người bất lực bất khả nối lại, để sống hiệp hành với Chúa và với nhau như thuở ban đầu. Chính vì thế, Thiên Chúa đã ban chính Con Một Ngài là Đức Giê-su Ki-tô xuống thế, qua mầu nhiệm Nhập thể, Thiên Chúa viếng thăm con người, để nối lại mối dây liên kết bằng chính giá máu cứu chuộc và sự Phục Sinh của Ngài. Như thế, mầu nhiệm Giáng sinh chính là khởi đầu để nối tương quan đã bị tổn thương giúp con người và Thiên Chúa cùng vũ trụ và mọi thụ tạo lại được hiệp hành với trong hòa bình và tình yêu.
Hình ảnh hiệp hành rõ nét được thấy trong biến cố Giáng Sinh của Ngôi Lời. Trong biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa qua Ngôi Lời Nhập Thể, dưới hình hài của một hài nhỉ bé nhỏ, nơi hang đá đã đến và hiệp hành với con người bằng một tình yêu khô dò khô thấu; con người được hiệp hành với nhau, đẹp nhất qua hình ảnh của Thánh Gia, nơi có Đức Mẹ, Thánh Cả Giu-se và Hài nhi hiệp hành với nhau trong tình yêu của một gia đình thánh để cùng nhau thi hành và hoàn tất sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó; sự hiệp hành giữa con người với con người nơi biến cố này cũng được thể hiện cách tuyệt vời nơi các mục đồng và những nhà chiêm tinh khi họ cùng đến để bái lạy và nhìn nhận Đấng Cứu Thế đã giáng sinh, để rồi từ đó, cùng với các Thiên thần và muôn loại thụ tạo, mà đại diện là bò lừa để cùng hát lên lời “Gloria, Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời…”
Như vậy, Giáng Sinh là biến cố làm bật lên hình ảnh nhiệm lạ và kì diệu về sự hiệp hành mà Giáo hội đã và đang thúc đẩy con cái mình sống mối dây hiệp thông ấy. Nơi mầu nhiệm Nhập Thể mà cụ thể qua biến cố Giáng Sinh, Thiên Chúa, con người và mọi loài thụ tạo cùng hiệp hành với nhau trong tình yêu nhờ Ngôi Hai Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, con Thiên Chúa làm người, món quà cao cả và quý giá nhất mà Thiên Chúa ban tặng để nối lại mối dây liên kết và sự hiệp hành đã bị phá vỡ và xáo trộn do tội lỗi.
d. Dấu chỉ niềm tin
Nhờ bí tích Rửa tội, mọi ki-tô hữu đều cùng tuyên xưng niềm tin vào Đức Giê-su Ki-tô Ngôi Hai Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và là người thật. Mầu nhiệm Nhập thể chính là lời tuyên xưng và xác tín sống động nhất của mỗi người ki-tô hữu vào mầu nhiệm Ngôi Hiệp cũng như niềm tin vào ơn cứu độ duy nhất nơi Đức Ki-tô. Trong Kinh tin kính, chúng ta đều long trọng tuyên xưng “Tôi tin kính một Chúa Giêsu Kitô, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Chúa Cha từ trước muôn đời: Người là Thiên Chúa bởi Thiên Chúa, Ánh Sáng bởi Ánh Sáng, Thiên Chúa thật bởi Thiên Chúa thật; được sinh ra mà không phải được tạo thành, đồng bản thể với Đức Chúa Cha; nhờ Người mà muôn vật được tạo thành. Vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta, Người đã từ trời xuống thế; bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria,và đã làm người…”.
Như thế, nhờ đức tin, mỗi ki tô hữu tuyên xưng niềm tin của mình vào Thiên Chúa Ba Ngôi nhất là tuyên xưng niềm tin của mình vào mầu nhiệm Nhập Thể, nơi Thiên Chúa làm người để cứu độ chúng ta. Cách đặc biệt, mỗi dịp lễ Giáng sinh là mỗi dịp chính những người ki-tô hữu cùng hợp nhau để tuyên xưng niềm tin của mình. Đó cũng là một cơ hội để người tín hữu làm mới lại các mối tương quan với Chúa, với tha nhân và chính mình. Nhờ đó, mỗi Ki-tô hữu biết sống mầu nhiệm Nhập thể trong chính cuộc đời của mình, khi trở thành những chứng nhân của niềm tin và sứ giả để đem Chúa đến cho mọi người, nhất là qua mỗi Thánh lễ và qua cuộc sống hằng ngày, nơi niềm tin được tỏ hiện mà cụ thể là trong dịp Giáng Sinh mà Giáo hội đang hướng tới.
Điều này được chính Đưc Thánh cha kêu gọi “chúng ta cần phải luôn luôn lắng nghe và đón nhận lời loan báo này, đặc biệt trong một thời điểm vẫn còn bị đánh dấu bi thảm bởi bạo lực chiến tranh, bởi những nguy cơ mang tính thời đại do biến đổi khí hậu, và bởi nghèo đói, đau khổ, đói khát và các vết thương khác đang hiện diện trong lịch sử chúng ta. Là điều an ủi khi khám phá ra rằng ngay cả trong những hoàn cảnh đau đớn này cũng như trong tất cả các không gian của nhân loại yếu đuối của chúng ta, Thiên Chúa hiện diện trong chiếc nôi này, máng cỏ mà ngày nay Người chọn để sinh ra và mang tình yêu Chúa Cha đến cho tất cả mọi người; và Người làm như vậy với cách của Thiên Chúa: gần gũi, cảm thông, dịu dàng…chúng ta cần phải học nghệ thuật lắng nghe. Trước các bổn phận và hoạt động hàng ngày của chúng ta, đặc biệt trước các vai trò mà chúng ta phải gánh vác, chúng ta cần tái khám phá giá trị của các mối quan hệ, và cố gắng cởi bỏ chủ nghĩa hình thức, để làm cho chúng sinh động với tinh thần Tin Mừng, trên hết bằng cách lắng nghe nhau. Với trái tim và đầu gối. Chúng ta hãy lắng nghe nhau nhiều hơn, không thành kiến, nhưng cởi mở và chân thành. Chúng ta hãy lắng nghe nhau, cố gắng hiểu rõ những gì anh chị em chúng ta đang nói, để nắm bắt những nhu cầu của họ và cuộc sống của chính họ cách nào đó, ẩn giấu đằng sau những lời nói, không phán xét…”[16]
2.2. Về mặt văn hóa xã hội
- Dấu chỉ hòa bình
Có lẽ, thế giới vẫn chưa thể quên một hình ảnh tuyệt vời về ngày Hưu chiến lễ Giáng Sinh, một dấu chỉ của sự hòa bình kì lạ giữa bầu khí căng thẳng của thế chiến thứ nhất.Một tuần trước ngày lễ, binh lính hai bên tham chiến đối đầu là Đức và Anh Quốc băng qua các chiến hào để trao đổi lời chào mừng cũng như trò chuyện với nhau. Vào ngày và đêm trước Lễ Giáng Sinh cũng như đúng ngày lễ này, binh sĩ từ hai phía dò dẫm tiến vào vùng giao tranh, ngồi lại với nhau rồi cùng trao đổi thức ăn và những món quà kỷ niệm. Họ trao đổi tù binh, tổ chức chung lễ an táng, rồi hát với nhau các ca khúc Giáng sinh trước khi chia tay. Họ cũng tổ chức những trận đấu bóng giao hữu, tạo nên những ấn tượng sâu đậm nhất về cuộc hưu chiến. Tuy nhiên, tại một số khu vực, chiến tranh vẫn tiếp diễn, trong khi ở những nơi khác chỉ xảy ra những cuộc dàn xếp để thu hồi thi thể các binh sĩ tử trận…[17]
Đó cũng chính là ý nghĩa mà lễ Giáng Sinh muốn hướng tới. Đức Giê-su chính là hoàng tử hòa bình, Đấng đem bình an cho nhân loại, để giúp con người được hòa giải với Thiên Chúa và với nhau. Dẫu vậy, dù Thiên Chúa đã làm người đã chết và sốn lại để hòa giải con người với Thiên Chúa và với nhau, cũng như ước mong nhân loại nên một và được sống trong hòa bình. Tuy nhiên, những xung đột, chiến tranh và bạo lực vẫn tiếp diễn và tiếp tục dằn lên nỗi đau của nhân loại, mà gần đây sự chia rẽ và xung đột ngày càng leo thang và khiến nhân loại lầm than, nhất là cuộc chiến tranh giữa Nga và Ukrai va, và gần đây nhất là cuộc chiến đẫm máu tại dải Gaza, cùng với biết bao những chia rẽ ở mọi cấp độ, vẫn khiến con người không ngớt đau khổ. Chính vì thế, mỗi mùa Giáng Sinh luôn là một cơ hội để Chúa đến với con người và con người đến với nhau trong hòa bình. Những hang đá tâm hồn, những cây thông cùng những lời hòa giải sẽ diễn ra, để những nỗi đau của những con người sớm chấm dứt và thế giới sớm lập lại trật tự hòa bình, để rồi những ca khúc Giáng Sinh sẽ tiếp tục được ngân vang, khi con người sống vui vẻ hạnh phúc và hòa bình với nhau…
b. Dấu chỉ của gặp gỡ và đoàn viên
Giáng sinh luôn là dịp người người nhà nhà trên khắp thể giới không phân biệt màu da sắc tộc thể hiện tình yêu thương, nhất là qua những cuộc gặp gỡ và thăm viếng. Noi gương Thiên Chúa viếng thăm con người, Giáng sinh mang lại cho con người cơ hội để gặp gỡ. Cách riêng, Giáng sinh cũng luôn là dịp của sự gặp gỡ, đặc biệt là dịp của đoàn viên, khi các thành viên trong gia đình, cộng đoàn hay tổ chức gác lại những lo lắng những bộn bề để trở về bên gia đình, nơi những người thân, bên cộng đoàn… hay đơn giản là ngồi lại với nhau để chia sẻ niềm vui chia sẻ những điều yêu thương và chân thành nhất mà bình thường trong cuộc sống thật khó để có cơ hội dành cho nhau…
Không những thế, cùng với việc mừng biến cố Ngôi Hai Thiên Chúa xuống thế làm người, gặp gỡ con người, để cứu nhân loại khỏi ách nô lệ tội lỗi, thì Giáng Sinh cũng là dịp để con người gặp gỡ nhau, hòa chung với nhau trong niềm vui, sự sẻ chia gần gũi và ngày hội đoàn viên. Nếu người mỹ có lễ tạ ơn là dịp để mọi người trở về, quây quần bên nhau, người việt hay Á Đông có tết âm lịch, thì nhiều người phương Tây, cách riêng với người ki-tô hữu, Giáng sinh đã trở thành dịp đoàn viên, quy tụ nhau nơi gia đình giáo xứ, trong tâm tình cầu nguyện cùng những bản thánh ca Giáng Sinh du dương nơi những hang đá, nhất là chia sẻ không khí gia đình dù chỉ ngắn ngủi, nhưng ấp áp giữa cái lạnh của mùa đông, nhất là giữa một thế giới dường như ngày càng trở nên giá lạnh tình người bởi sự xa cách, bởi sự vô cảm dửng dưng của con người. Không những thế, Giáng sinh giờ đây không chỉ còn đơn thuần là một ngày lễ nhưng còn là một lễ hội, một ngày hội của con người trên khắp thế giới, giúp mọi người có cơ hội và thời gian chậm lại để xích lại gần nhau hơn, trao cho nhau hơi ấm của tình người cùng với đó là những món quà, những cánh thiệp những lời chúc ý nghĩa và nhất là trao cho nhau chính Đấng Cứu Thế – Hài nhi Giê-su.[18]
c. Dấu chỉ của sự sẻ chia
Sự chia sẻ luôn là một ý nghĩa đặc biệt của Giáng Sinh. Nơi đó, con người đến với nhau, những con người xích lại gần nhau để sẻ chia hơi ấm của tình người. Không chỉ qua những món quà hay dừng lại ở vật chất, nhưng ở đây còn là ựu quan tâm sự hiện diện và nhất là chia sẻ tình yêu, sự tương thân tương ái với những người nghèo khổ bất hjanhj trong xã hội hay trong gia đình. Nhất là trong một thế giới ngày càng đề cao vật chất và những giá trị thế tục, thì Giáng sinh đúng nghĩa luôn mang lại cho con người cơ hội để chia sẻ chính Ngôi Hai Nhập Thể, là tình yêu chân thành giữa con người với con người
Những hình ảnh đẹp của những cộng đoàn, những nhóm thiện nguyện bác ái biết đến với những người bị lãng quên trong xã hội là những hình ảnh sống động nhất làm lan tỏa tinh thần Ki-tô giáo. Nhờ đó, con người biết mang Chúa đến cho mọi người nhất là những người nghèo khổ bất hạnh nhất trong thế giới, một thế giới có thể nói đang thừa mứa vật chất mà thiếu vắng tình yêu, thừa mứa sự vứt bỏ nhưng thiếu vắng sự sẻ chia…
Các đấng giáo phụ nhắc đi nhắc lại ý muốn: “Thiên Chúa làm người để con người trở nên thiên chúa”. Quả thật, Thiên Chúa đã trao ban cho chúng ta món quà vô giá là chính Con Một Chúa. Chúng ta cũng phải chia sẻ cho nhau những món quà nhân dịp kỷ niệm ngày Giáng sinh Con Một Chúa, đặc biệt trong gia đình, món quà ấy có thể là vật chất, là sự cảm thông với tinh thần vị tha, bằng lời nói, tiếng cười.
Thế giới xung quanh ta còn thiếu tiếng cười, còn biết bao người nghèo khổ và bất công, phải chăng chúng ta chưa có sẻ chia? Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, đã nói: “chính trong đêm Giáng sinh mà nền văn minh tình thương đã khai mào”. Chúa chỉ thực sự ở trong ta và giáng sinh trong lòng ta khi chúng ta đón tiếp tha nhân; câu hỏi được đặt ra trong Mùa Giáng sinh này là, tha nhân có vị trí nào trong trái tim tôi?[19]
3. Những điều thú vị về lễ giáng sinh[20]
Có thể nói, mỗi dịp Giáng Sinh về, những thứ đặc trưng nhất làm nên Giáng Sinh cũng xuất hiện khắp nơi trên mọi nẻo đường cũng như trong thánh đường. Những vật dụng, những đồ trang trí, những món quà, những hang đá, cây thông, cánh thiệp… mà chỉ có nơi Giáng Sinh và làm nên Giáng Sinh.
a. Cây thông Giáng sinh
Mùa đông, mọi loài cây cối trở nên vàng úa và rụng hết lá, tuy nhiên riêng cây thông vẫn xum suê xanh tốt. Vì thế, cây thông được tượng trưng cho sức sống, sự phục sinh và niềm hy vọng trong mỗi dịp Giáng sinh về.
Martin Luther là người đầu tiên trang hoàng cây thông xanh cho Lễ Giáng sinh. Ông mang một cây vào nhà và gắn lên đó những cây nến và vật trang trí được làm bằng hoa, quả và những đồ dùng hàng ngày lên trên đó với ý nghĩa ánh sáng sẽ nhắc mọi người nhớ đến Chúa Jesus và những vật trang trí trên cây thông biểu hiện cho những món quà của Chúa nhân từ đã trao tặng.
b. Ông già Noel
Theo truyền thuyết, Giám mục thành Myra, sinh ở Thổ Nhĩ Kỳ năm 279, nổi tiếng vì cả cuộc đời dành cho các hoạt động bác ái. Đến thế kỷ IX, Hội Thánh Công giáo làm lễ phong thánh cho ông với cương vị là Thánh bổn mạng của trẻ em. Từ đó ra đời tên gọi Santa Claus (người Anh, Mỹ gọi là ông già Noel).
Vào đêm Giáng sinh, ông già Noel trở lại trần gian, theo đường ống khói lò sưởi vào mỗi gia đình, để bánh kẹo và quà vào trong những tất mà trẻ em treo gần gường ngủ hay lò sưởi đem lại giấc mơ đẹp cho tuổi thơ.
c. Ngôi sao Giáng sinh
Ngôi sao Giáng sinh tượng trưng cho phép lạ của thượng đế. Tương truyền, lúc Chúa chào đời thì xuất hiện một ngôi sao rực rỡ, ánh sáng tỏa ra mấy trăm dặm. Có 3 vị vua được mặc khài tìm theo ánh sáng ngôi sao đẻ đến được thành Bethelem nơi Chúa ra đời và đã gặp phép lạ (Lễ Ba vua).
d. Hang đá và máng cỏ
Vào dịp chuẩn bị Giáng sinh, các giáo đường thường dựng một mô hình thu nhỏ một góc hang đá nơi Chúa chào đời với đầy đủ những hình người và con vật theo truyền thuyết trong Kinh Thánh. Đó là điều không thể thiếu mỗi dịp Giáng Sinh về. Nhất là khi con người ngày càng phát triển về khoa học kĩ thuật, những hang đá với đủ thể loại, thậm chí cũng chạy theo “mốt” và “trend” cũng được con người không ngừng sáng tạo và ‘cho ra lò” những hang đá độc lạ và không kém phần đẹp mát và đậm chất linh thiêng…
Người sáng tạo biểu tượng đáng yêu này là thánh Francis. Đêm Giáng sinh năm 1224, ông đã dựng lên trong giáo đường ở một làng gần Assissi (Ý), chiếc hang đá có cả người thật.
d. Thiệp Giáng sinh
Những cánh thiệp Giáng sinh đã trở thành một nét văn hóa quen thuộc của lễ Giáng Sinh khi con người trao gửi cho nhau những lời chúc tốt đẹp nhất và tràn đầy tình yêu.
Vào thời cổ Ai Cập và La Mã, người ta có thói quen gửi lời chúc mừng đầu năm khắc trên những mảnh gỗ. Đến năm 1843, Henry Cole (Anh) vì quá bận không thể viết thư được nhân mùa Giáng sinh nên đã in một số thiệp gửi đến các đồng sự của ông. Lần ấy, đã có hàng ngàn tấm thiệp được in và bán với giá một “Shilling”.
d. Quà Giáng sinh[21]
Những món quà biểu lộ tình yêu của mọi người với gia đình và bè bạn. Đối với một số người, những món quà Giáng Sinh còn có một ý nghĩa tín ngưỡng sâu sắc. Đó là lễ kỷ niệm ngày sinh của Giê-su, món quà mà Thiên Chúa đã ban tặng cho con người.
Khi Chúa Giê-su cất tiếng khóc chào đời tại Bethlehem trong một cái máng cỏ, ba nhà thông thái (hay nhà chiêm tinh, theo truyền thống cũng là ba vị vua) từ phương Đông đã đến để bày tỏ sự thành kính của mình. Họ mang đến ba món quà quý giá, đó là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng có ý nói Giêsu là vua, nhũ hương để tuyên xưng Chúa Giêsu là Thiên Chúa và mộc dược tiên báo cuộc khổ nạn và sự chết của Chúa Giêsu để cứu chuộc nhân loại.
Ba vị vua rất giàu có nhưng những người dân nghèo hầu như chẳng có tài sản cũng mang đến bất cứ những gì họ có thể để tỏ lòng thành kính với Chúa Hài đồng. Những người chăn cừu tặng Giêsu hoa quả và những món đồ chơi nhỏ do chính họ tạo ra.
Theo truyền thuyết xưa, Ông già Noel thường cưỡi xe tuần lộc trên trời, đến nhà có cây thông Giáng sinh và leo qua ống khói để đem đến những món quà cho các em nhỏ đang ngủ và thường để quà trong những chiếc bít tất (vớ).
Ngoài ra, ngày nay ở Việt Nam thì Giáng sinh cũng là dịp để các bạn trẻ có cơ hội gửi cho nhau những món quà, những bó hoa tươi và lời chúc tốt đẹp đến người thân và bạn bè.
4. Giáng sinh và vấn đề tục hóa
Bên cạnh những nét đẹp và những giá trị mà đại lễ Giáng Sinh đã đang và vẫn tiếp tục mang lại cho nhân loại, bên cạnh bao tâm hồn thiện tâm vẫn luôn khao khát Chúa đến trong hang đá tâm hồn để cứu độ họ…thì vẫn còn đó những người vì vô tình hay hữu ý tiếp tục lạm dụng, tục hóa Giáng sinh và biến Giáng Sinh trở thành một dịp cho chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa hình thức cùng với sự vô cảm và văn hóa vứt bỏ lên ngôi. Đó là những vấn nạn và những lạm dụng làm méo mó và lệch lạc ý nghĩa cao đẹp mà Giáng Sinh Ki-tô giáo muốn mang lại cho thế giới. Nhất là trong một xã hội ngày càng đề cao vật chất, khi vật giá tăng cao, khi dường như nhân phẩm ngày càng bị trượt giá một cách thê thảm, thì Giáng Sinh có lẽ cũng trở thành một đối tượng ưa thích đang bị lạm dụng, biến chất khi bị thương mại hóa, kinh tế hóa, thậm chí cả chính trị hóa… .[22]
a. “Hội hóa” và những hiểu lầm
Không chỉ với người không có niềm tin, mà thật đáng báo động là nơi chính những tín hữu, Giáng Sinh lại trở thành một dịp mà “tính hội” của ngày lễ đang lấn át và làm mất tính “chất lễ” của biến cố trọng đại mừng kính Con Thiên Chúa làm người và chờ đợi trong niềm hy vọng Chúa sẽ đến trong vinh quang.
Cùng với đó, việc tổ chức và “hội hóa” lễ Giáng Sinh khiến nhiều người lầm lẫn Giáng Sinh là đỉnh cao của năm phụng vụ, là lễ quan trọng nhất của người công giáo. Cũng vậy, nhiều người còn tự tin khẳng định rằng Giáng Sinh là vào ngày 24 chứ không phải ngày 25 tháng 12.Điều đó có thể chỉ đúng trong phương diện quy mô tổ chức và sức ảnh hưởng, bởi giờ đây Giáng Sinh có thể nói không còn chỉ là ngày lễ của riêng người Ki-tô giáo, nhưng còn là một ngày hội, một văn hóa của toàn thế giới hay về cái không khí mà nó mang lại… Trong khi đó, ngày lễ lớn nhất, quan trọng nhất đối với mỗi người Công Giáo là Lễ Phục Sinh… Đây có lẽ là một trong những hiểu lầm đối với nhiều người Công Giáo, và đối với hầu hết người tôn giáo bạn, khi chính sự thiếu hiểu biết và cung cách tổ chức của những người có đạo khiến họ hiểu lầm…
Không những thế, thật đáng buồn khi cùng với đà tiến của sự tục hóa, Giáng Sinh lại trở thành một phong trào của việc trang trí, của những cái hang đá siêu to khổng lồ đến kệch cỡm, lớn nhất, tốn kém nhất, hay những cái hang độc lạ nhất… cái gì cũng nhất mà không phải để thể hiện lòng tôn thờ Chúa hay truyền tải sứ điệp Tin Mừng, nhưng lại biến Giáng sinh, biến Chúa thành bức bình phong để thể hiện chính bản thân mình, không phải để mang đến cho nhau niềm vui nhưng là mang đến cho nhau sự đố kị, ganh đua, thành tích và nhất là thể hiện sự kiêu ngạo của chính mình…
Hơn nữa, Giáng sinh nhiều khi lại bị biến dịp thuận tiện để con người đua nhau hợp pháp hóa cái tôi ích kỉ, cái cá tính của mình khi biến hang đá trở thành một món trang trí rẻ tiền bày, biến cây thông hay đèn hoa trở thành dịp để thể hiện độ giàu, độ chơi của một cộng đoàn, một giáo xứ, hay của những cá nhân, thậm chí công ty, tập đoàn không có niềm tin theo kiểu giáo xứ tôi mới là nhất, hang đá cây thông, chương trình của giáo xứ tôi, của hội tôi, của công ty tôi mới là nhất thế giới…. Bên cạnh đó, những đêm hoan ca của chúng tôi mới hoành tráng và tốn kém nhất mà quên đi bản chất đich thực đầy cao đẹp của biến cố Giáng sinh là Thiên Chúa làm người, ở với con người, đó phải là dịp mà mọi người trao cho nhau tình yêu cứu độ mà Hài nhi Giê-su đã mang đên cho nhân loại. Đó cũng phải là dịp mà con người xích lại gần nhau hơn thay vì ganh đua tranh đấu, đó là dịp mà con người biết cho đi sẻ chia sưởi ấm bao phận người còn đang đói, đang khát không chỉ sự sống vật chất mà còn cả đời sống tinh thần… Nhưng những mục đích cao đẹp ấy đôi khi lại bị lãng quên hay che khuất trong đà tiến của thế giới ngày nay, để rồi Thiên Chúa trở thành một khán giá bất đắc dĩ, hang đá nên một hình nền hoàn hảo cho những toan tính, những thú vui của con người…[23]
b. Thương mại hóa- cơ hội siêu lợi nhuận
Mỗi mùa Giáng sinh đến, tranh luận lại nổ ra về xu hướng thương mại hóa và ý nghĩa ngày một nhạt dần của kỳ lễ này. Nhiều người tin rằng trong quá khứ, ngày Chúa ra đời thường được tổ chức kỷ niệm một cách linh thiêng hơn.
Tạp chí The Conversation dẫn các nghiên cứu cho thấy, nhiều thế kỷ trước, người châu Âu đã tham gia vào các hoạt động của nhà thờ và thực thi các nghi thức tôn giáo. Thế nhưng lễ Giáng sinh khi đó rất khác so với bây giờ. Phong tục trang trí cây thông và tặng quà vào ngày 24/12 bắt nguồn từ Đức, chưa được biết đến nhiều ở châu Âu vào cuối thế kỷ 18, và chưa xuất hiện ở Mỹ cho tới tận những năm 1830.[24]
Theo đó, cùng với những ý nghĩa cao cả, cũng có một phần đen tối trong sự biến chất của ngày lễ này. Nhà sử học Penne Restad nói rằng Giáng sinh đã bị biến thành một dịp tặng quà để duy trì nền kinh tế. Và cách tốt nhất để vận chuyển sản phẩm, quà và đồ Giáng sinh là đường ray thép…
Có thể nói, trong đà phát triển của xã hội, Giáng Sinh lại trở thành một trong những cơ hội thuận tiện nhất để kinh doanh và kiếm siêu lợi nhuận. Công công ty, tập đoàn và cả tư nhân không ngừng tung ra những sản phẩm, những chương trình nhằm thu hút khác hàng và kích cầu. Từ đó, những món lợi khổng lồ được thu về từ những hoạt động kinh doanh, nhất là kinh doanh online ngày càng lớn. Về phía người tiêu dùng, Giáng sinh cũng trở thành một ngày hội mua sắm, mùa mua sắm khi họ sẵn sàng chi những khoản tiền thật lớn, thậm chí dốc hết hầu bao trong việc mua sắm cho dịp Giáng Sinh này. Những hoạt động kinh doanh thương mại là chuyện hết sức bình thường của nền kinh tế, thế nhưng bên cạnh những hình thức và những chương trình kinh doanh thương mại chân chính, cũng còn đó những lạm dụng và những hình thức kinh doanh và mua sắm không cần thiết, thậm chí bất hợp pháp, dẫn tới tình trạng hoang phí và sự dư thừa vứt bỏ vẫn xảy ra mỗi dịp Giáng Sinh về…
c. Chính trị hóa – Cơ hội tiến thân
Cũng như nhiều dịp lễ, tết, Giáng sinh cũng trở thành nạn nhân của sự lạm dụng, nhất là vấn đề chính trị hóa hay tìm cơ hội tiến thân. Mỗi dịp Giáng Sinh về, bên cạnh những món quà chân thành gửi trao những thông điệp yêu thương, cũng còn đó những con người lạm dụng và biến Giáng Sinh trở thành một dịp để làm tiền, để tham nhũng cũng như có những người lạm dụng dịp này để biếu sén, để tìm cơ hội tiến thân nơi những món quà đắt tiền cùng với nhiều thủ đoạn nhằm đạt được mục đích của mình. Từ đó, Giáng Sinh mất hoàn toàn ý nghĩa và chỉ còn đó sự tính toán, những mưu đồ… Đây là một vấn đề khá tế nhị nhưng dường như vẫn xảy ra cách công khaihay thầm kín trong xã hội ngày hôm nay…
Thật vậy, đôi khi sự hào nhoáng của việc trang trí hay những hoạt động bên ngoài lấn át và làm lu mờ Thánh Lễ, trung tâm của Giáng Sinh để thay vào đó là biết bao những toan tính, những chiêu bài kinh doanh, những âm mưu chính trị được diễn ra dưới lớp vỏ hoàn hảo của một ngày lễ, mà nay chỉ còn là một dịp mang tính chất hội đơn thuần. Những món quà không phải để gói gém niềm hy vọng, sự biết ơn hay niềm vui, nhưng ẩn giấu trong đó là những thứ giả tạo cùng những âm mưu, những đòi hỏi…[25]
d. Tình dục hóa và còn nhiều vấn đề…
Giáng Sinh tự bao giờ cũng trở thành một dịp thuận tiện để các cặp đôi hẹn hò để đi chơi, để thể hiện tình yêu của mình. Bên cạnh những mối tình trong sang và nên duyên mỗi dịp Giáng Sinh, cũng còn đó những lạm dụng, nhất là với người trẻ khi biến dịp lễ này thành cơ hội để có những quan hệ tính dục, cùng với những cuộc truy hoan thác loạn và những trò ăn chơi để rồi buông mình trong những vòng xoáy tội lỗi mà đến khi giật mình tỉnh giấc thì đã quá muộn…
Không những thế, Giáng sinh, nhất là Giáng sinh ngày nay luôn là dịp gắn liền với những bữa tiệc và những cuộc đi chơi. Thật vậy, với không ít người, ý nghĩa tôn giáo của đại lễ này không còn là một ý niệm trong tâm thức của họ. Trái lại, với nhiều người, Giáng Sinh chỉ là dịp để đi chơi, mua sắm, tặng quà, nhậu nhẹt, tiệc tùng và tệ hơn là truy hoan. Có lẽ chúng ta không còn quá xa lạ với cảnh mọi người nhộn nhịp đổ ra đường để đi chơi, đi xem hoan ca văn nghệ, xem cây thông, hang đá… vào đêm 24, để rồi sau đó, khi Thánh Lễ, trung tâm của Giáng Sinh diễn ra, mọi người lại lục tục bỏ về hoặc tụ tập tại những quán ăn, những trung tâm mua sắm để thỏa mãn cho những nhu cầu ăn, mặc… của mình, hay tệ hơn biến chính những hang đá trở thành tụ điểm của nhậu nhẹt, cờ bạc và đủ thứ tệ nạn, để rồi Chúa chỉ là một khán giả bất đắc dĩ và tiếp tục đau khổ vì con người…
Dẫu vẫn biết còn đó rất nhiều tâm hồn khao khát đến Giáng Sinh để tận hưởng và trao gửi những thông điệp thật sự của tình yêu thương, của niềm hy vọng, những cành thiệp với những thông điệp đầy ý nghĩa, những cuộc gặp gỡ của sự giao hòa, của nềm vui đoàn viên hay những món quà, những hang đá đơn sơ nhưng đầy tình Chúa cùng niềm tin trong đó, thì Giáng sinh trong một phương diện nào đó, có vẻ cũng bị lạm dụng, biến chất, trở thành một hiện tượng xã hội hơn là một lễ tôn giáo, khi Thiên Chúa trở thành một hình nền hoàn hảo, một bình phong tuyệt mỹ cho những kế hoạch cho con người thể hiện mà sau sự thể hiện ấy là một sự lãng quên, một sự hoang tàn đổ nát mà những hang đá, những cây thông, những bức tượng lại bị cho váo một xó… Đau buồn hơn là ngay giữa không khí giáng sinh, hang đá, nơi có Chúa ngự lẽ ra phải là nơi được tôn kính nhất, là nơi để cầu nguyện, để tôn thờ, thì thay váo đó, những hang đá ấy đôi khi không còn sự tôn kính nhưng là nơi để con người thay vì hội nhau ca tụng chúa với những bài thánh ca hay những bữa tiệc thánh thiện, lại là những cuộc nhậu thâu đêm, nhưng “sòng bạc dã chiến” được dựng nên ngay dưới chân và trước sự hiện diện của Chúa; những hang đá thậm chí với những bộ tượng không được làm phép, hay có làm phép thì nhiều người cũng chẳng ý thức về sự hiện diện đích thực cua Ngôi Hai Thiên chúa mà chỉ lướt qua hang đá như một món đồ trang trí lộng lẫy; rồi hang đá trở thành một background hoàn hảo cho những bức ảnh check-in để phô diễn những bộ quần áo, thậm chí những hành động đầy khiếm nhã của các cặp đôi cùng biết bao sự nhiễu nhương vẫn đã và đang diễn ra mà nhiều người coi đó như là chuyện bình thường tất yếu của thời đại và cuối cùng biến nhân vật chính của ngày lễ này trở thành kẻ tội nghiệp đáng thương nhất…[26]
5. Trả lại ý nghĩa cho Lễ Giáng Sinh
Đứng trước thực trạng Giáng sinh ngày càng bị tục hóa, Đức Thánh cha Phan-xi-cô gần đây nhất đã cảnh báo “thật không may, người ta có thể nhầm lẫn về ngày lễ và yêu thích những điều bình thường của thế gian hơn là những điều mới mẻ từ Trời. Nếu Giáng sinh vẫn chỉ là một ngày lễ truyền thống đẹp đẽ, nơi mà chúng ta là trung tâm chứ không phải là Thiên Chúa, thì nó sẽ chỉ là một cơ hội bị đánh mất”. Từ đó, ngài kêu gọi “xin anh chị em đừng tục hóa lễ Giáng sinh! Chúng ta đừng bỏ qua việc mừng lễ, như ngày xưa đó, khi “Người đến giữa dân Người và họ đã không đón tiếp Người””(Ga 1,11)[27]. Có lẽ đây cũng là lúc để đào sâu và trả lại ý nghĩa đích thực cho đại lễ này, nhất là trong một xã hội ngày càng muốn tục hóa tôn giáo và loại trừ Thiên Chúa khỏi cuộc sống…
a. Đại lễ của tình yêu
Sứ điệp Giáng sinh là về sự sống, niềm vui, sự sáng tạo niềm hy vọng, tình bạn và tình yêu thúc đẩy kinh nghiệm và lịch sử của con người… niềm vui lớn lao này về tình yêu của Thiên Chua dành cho con người đã thay đổi lịch sử mãi mãi…[28] Chính vì thế, lễ Giáng Sinh sẽ chỉ ắp đầy ý nghĩa khi là đại lễ của Tình yêu, không phải một thứ tình yêu rẻ tiền mau đến chóng phải và đầy tính lạm dụng, nhưng là một tình yêu cao cả, tình yêu cứu độ.
Thật vậy, con người trong dòng lịch sử hiện hữu của mình vẫn luôn có những vấn đề của mình, vẫn luôn phải đối diện với sự hữu hạn của mình nơi những đổ vỡ, những vụn vỡ của thân phận làm người, thân phận nô lệ tội lỗi, dẫu cho cách thể hiện hay những vấn đề có thể mỗi thời mỗi khác. Những vấn đề, những vấn nạn xưa như trái đất và ít khi được biết đên trên diện rộng: ích kỉ, chia rẽ, hận thù, chiền tranh… thì trong một xã hội mà việc truyền thông hóa mọi thứ ngày nay, một bức tranh toàn cầu về một nhân loại suy đồi, đầy nguy hiểm và bất an dường như cách nào đó được thổi phồng quá mức bởi truyền thông và sự bão hòa về thông tin, khiến nhân loại như bất an hơn, sợ hãi hơn… Nhưng thiết nghĩ, con người dù ở đâu và ở thời nào, vẫn đã và tiếp tục đang xây cho nhân loại, cho thế giới, cho quốc gia, cho dân tộc, cho gia đình và cho chính tâm hồn mình những hang đá được đan kết lên bởi những viên đá của tình yêu có, hy vọng có, niềm tin có… những cũng không thiếu những viên đá của tội lỗi, yếu đuối, những viên đá của sự chia rẽ, lòng ích kỉ, tham lam hận thù… Tuy nhiên, dẫu vẫn biết sẽ thật tuyệt vời nếu dân tộc nào, gia đình nào và tâm hồn nào đã và đang xây cho Đấng Cứu Tinh những hang đá ấm áp của tình yêu, thì Hài Nhi Giê-su chắc chắn vẫn bất chấp, vẫn liều lĩnh hạ sinh nơi chính những hang đá lạnh lẽo, giá rát được làm nên bởi sự bất toàn đầy hữu hạn của con người để sưởi ấm, yêu thương và cứu độ tất cả mọi người, bởi một chân lý thật đơn giản nhưng quá lạ lùng, khó hiểu là vì Ngài quá yêu con người, một tình yêu không thay đổi như chính Ngài là Đấng Không Đổi Thay…[29]Trả lại Chúa cho Giáng Sinh.
Sự phát triển khiến ngày càng có nhiều hang đá mọc lên khắp nơi. Đâu đâu cũng thấy Chúa Hài Đồng nằm trong đủ loại hang đá. Thế nhưng, dường như Giáng sinh ngày càng mất Chúa, để rồi ngày nay thay vì người ta nhắc đến lễ Chúa Giáng Sinh thì rất nhiều người lạ chỉ biết đến Giáng Sinh hay Noel và coi đó chỉ thuần túy một ngày hội. Chúa Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể, từ nhân vật chính, từ trung tâm của Lễ Giáng Sinh, lại ngày càng trở thành nhân vật quần chúng, thậm chí khán giả khi bị gạt ra bên lề và trở thành bức bình phong cho bao kế hoạc cùng dự tính và niềm vui giả tạo của con người trong thế giới hôm nay. Thậm chí gần đây, một số nhóm thờ Stan còn kêu gọi mọi người gạt bỏ Giáng Sinh ra khỏi sự quan tâm và đời sống của con người.[30] Đó sẽ là một thảm họa khi con người dùng mọi cách để lọa trừ và “giết chết” Thiên Chúa…
Vì thế, hang đã sẽ mãi chỉ là một hang đá lạnh lẽo nếu không có Chúa. Cũng vậy một Giáng sinh không có Chúa thì sẽ thật nhạt nhẽo và vô ích vì Chúa không thể đến nơi những tâm hồn khước từ ngài. Ngài cũng không thể hạ sinh nơi những hang đá tâm hồn lạnh lẽo bởi sự thờ ơ, vô cảm và đầy tội lỗi, nhất là muốn loại trừ Ngài như Hê-rô-dê năm xưa. Do đó, hãy trả lại vị trí trung tâm củ Chúa cho Giáng Sinh, nơi mầu nhiệm cao cả đã được Thiên Chúa thực hiện để nối kết đất với trời và để giao hòa con người với Thiên Chúa. Hơn nữa, mỗi tâm hồn hãy dọn dẹp những thứ bận tâm, rác rưởi, những băng giá của hận thù, toan tính, những lạnh lẽo của sự hào nhoáng và sự giả tạo để rồi mỗi tâm hồn nên những hang đá ấm áp và đích thực để Chúa đến và ở giữa nhân loiaj và con người hôm nay, nhất là hãy đến với Chúa không chỉ nơi hang đá vật chất, nhưng nơi những hang đá tâm hồn, nơi những con người đang cần lắm đôi tay và con tim của chúng ta, những con người đang cần hơi ấm của tình yêu Thiên Chúa mà chính mỗi chúng ta là khí cụ và sứ giả mang Chúa đến với mọi người…
b. Đại Lễ, không phải lễ hội
Trọng tâm và đỉnh cao của bất kì một đại lễ nào trong Giáo hội không bao giờ nằm ở những hoạt động hào nhoáng bên ngoài như trang trí đèn cờ, sao, hang đá hay hoan ca, rồi sinh hoạt, cử điệu, hội thảo hay văn nghệ… nhưng là Thánh lễ. Chính nơi Thánh lễ, con người được gặp gỡ trực tiếp và thân tình nhất với Chúa Giê-su, Ngôi Lời Nhập Thể nơi bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể. Vì thế, Lễ Giáng Sinh không bao giờ nhắm đến những hoạt động bề ngoài và biến thành nó một ngày hội thuần túy, bởi như thế sẽ là một thất bại, một sự chiến thắng của ma quỷ và một thảm họa cho chính Giáo hội và cho con người. Do đó, mọi người, nhất là người ki-tô hữu luôn ý thức đúng tầm quan trọng của lễ Giáng sinh, tránh lầm tưởng coi đây chỉ là dịp để dạo chơi vô bổ hay khoe mẽ và hình thức hóa bề ngoài, để rồi sau khi xong xuôi tất cả lại về và đâu vào đấy với một cái bụng thật nó nhưng tâm hồn thì rỗng tuếch và hang đá tâm hồn thì lạnh lẽo hoang tàn. Điều này đã được Giáo hội cảnh báo khi luôn kêu gọi mọi tín hữu hãy hy sinh, chấp nhận buông bỏ những thú vui và những ồn ào của cuộc sống để đi vào nội tâm và trong thinh lặng để có thể gặp gỡ Chúa nơi Hang đá của tâm hồn, nhất là qua Bí tích Thánh Thể, nơi họ được kín múc nguồn sức sống giúp con người được no thỏa và nên tràn đầy tình yêu và sự sống đích thực.
c. Món quà đích thực
Món quà đích thực không phải là những thứ vật chất rẻ tiền dể rồi con người tiếp tục chia rẽ nhau và tiếp tục gây đau khổ cho nhau. Trái lại món quà Giáng Sinh đích thực và quý giá nhất đó chính là Ngôi Hai Thiên Chúa, món quà vô giá của Thiên Chúa đã ban cho toàn thể nhân loại trong đó có chúng ta.
Nếu có một bài học nào đó có thể rút ra từ việc tặng quà chính là: “Khi trao ban cho người khác người ta lại tìm được chính bản thân và những gì cao quý nhất”. Đó là sứ điệp chạy xuyên suốt trong Tin Mừng, đặc biệt trong Mầu Nhiệm Giáng Sinh: Đức Giêsu chính là quà tặng quý giá nhất Thiên Chúa trao ban cho con người (x. Ga 3,16). Người không chỉ mặc khải cho chúng ta tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người, mà còn tỏ bày cho chúng ta chân lý về chính con người: Đó là con người chỉ tìm lại được chính bản thân, nghĩa là đạt được nhân cách sung mãn bằng sự trao ban vô vị lợi mà thôi.[31]
d. Và Sẽ là lễ Giáng sinh, nếu…
Sẽ là lễ Giáng sinh nếu, như thánh Giuse, chúng ta dành chỗ cho thinh lặng; nếu, như Mẹ Maria, chúng ta thưa với Chúa “này con đây”; nếu, như Chúa Giêsu, chúng ta sẽ ở gần bên những người cô đơn; nếu, như các mục đồng, chúng ta sẽ đi ra khỏi những tường rào cản trở chúng ta để ở với Chúa Giêsu. Sẽ là lễ Giáng sinh nếu chúng ta tìm thấy ánh sáng nơi hang đá đơn hèn ở Bêlem. Nó sẽ không phải là lễ Giáng sinh nếu chúng ta tìm những ánh sáng lung linh của thế giới, nếu chúng ta chỉ chất đầy quà cáp, những bữa ăn tiệc tùng mà không giúp đỡ ít nhất là một người nghèo, giống như Thiên Chúa, bởi vì vào đêm Giáng sinh Thiên Chúa đã trở nên nghèo khó.[32]
6. Tạm kết
Giáng Sinh-Thiên Chúa làm người là một mầu nhiệm và mãi là mầu nhiệm vượt mọi tầm trí khôn của con người, để qua biến cố ấy, nhân loại được cứu thoát và vẫn đang tiếp tục được cứu thoát nhờ công trình cứu chuộc. Nhờ một trẻ thơ mang tên Giê-su Đấng Cứu Thế, Thiên Chúa tiếp tục kiên nhẫn với con người, tiếp tục liều lình, vật lộn với con người để cứu độ con người, để yêu thương, để chữa lành từng người. Đã hơn 2000 năm sau biến cố Giáng Sinh, nhân loại vẫn còn đó những vết thương, vẫn còn đó những ách nô lệ đang đè nặng lên thân xác và lương tâm con người, có lẽ trong tâm hồn, nhất là những tâm hồn khao khát đợi trông ơn cứu độ, trong những tâm hồn còn đầy lũng sâu tăm tối của tội lỗi, Thiên Chúa vẫn tiếp tục đến ở với con người, vẫn tiếp tục liều lĩnh Giáng Sinh giữa thế giới bất chấp việc chính Ngài có thể được chấp nhận hay từ chối, mà mỗi lần mừng kỉ niệm biến cố Giáng Sinh lần đầu tiên ấy, biết bao tâm hồn lại dậy lên trong mình niềm hy vọng, niềm tin vào một cuộc giải thoát, một cuộc chữa lành khỏi những vết thương, những cái ách nặng nề do tội lỗi gây ra… Lời “Em-ma-nu-el – xin Ngài hãy đến”, vẫn ngân vang vẫn tha thiết giữa một nhân loại còn đó những vấn đề của mình: nghèo đói, bệnh tật, ô nhiễm, dịch bệnh, chiến tranh…và chết chóc, để rồi giữa bóng đen của tội lỗi và ngay nơi lạnh lẽo của cái chết, niềm hy vọng vẫn luôn được thắp lên, được tỏa sáng và Thiên Chúa vẫn ở cùng chúng ta, vẫn yêu và vẫn cứu chuộc con người cho đến khi công trình vĩ đại của Thiên Chúa để cứu độ mọi người được hoàn tất nơi chính Ngôi Hai Thiên Chúa trong ngày Ngài trở lại trong vinh quang, ngày mà cả nhân loại đang rên siết đợi trong và mong đợi…[33]
[1] Cf. https://www.youtube.com/watch?v=PuKW8KV3dic
[2] Cf. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_Gi%C3%A1ng_Sinh
[3] https://tgpsaigon.net/bai-viet/dtc-nguon-goc-va-y-nghia-le-giang-sinh-43768
[4] Cf. Ibid.
[5] Cf. https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/y-nghia-cua-le-giang-sinh-49022
[6] Cf. ibid.
[7] Cf. Công đồng Vaticano II, Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 65
[8] Cf. Công đồng Vaticano II, Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, số 22
[9] Cf. Công đồng Vaticano II, Sắc lệnh về hoạt động truyền giáo của Giáo hội, số 3
[10] Cf. Josheph Ratzinger – Đức Giáo hoàng Bê-nê-đic-tô XVI, Đức Giê-su ở Zazareth (trọn bộ), Phạm Hồng Lam dịch, Nxb Tôn Giáo, tr. 764
[11] Cf. https://www.dcvphanxicoxavie.com/vn/Triet-Hoc/Van-De-Huyen-Nhiem-Cua-Con-Nguoi.html
[12]Cf. https://gpbuichu.org/news/TIN-GIAO-PHAN-75/ngot-ngao-hai-chu-dong-huong-14402.html
[13] Cf. https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2022-12/dtc-phanxico-tiep-kien-chung-giang-sinh-thanh-phanxico-de-sale.html
[14]Cf. Hồng y Carlo M. Martini, Xuất phát lại từ Emmau, Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên chuyển ngữ, Nxb. Hồng Đức, tr. 130
[15] Cf. Ibid. tr. 157
[16] https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2023-12/duc-thanh-cha-tiep-kien-giao-trieu-roma-dip-giang-sinh-2023.html
[17] https://vi.wikipedia.org/wiki/H%C6%B0u_chi%E1%BA%BFn_L%E1%BB%85_Gi%C3%A1ng_Sinh
[18] Cf. https://gpbuichu.org/news/Suy-tu/giang-sinh-toi-nghiem-chua-13802.html
[19] Cf. https://www.tonggiaophanhanoi.org/noel-le-cua-tinh-yeu-hy-vong-va-se-chia-suy-niem-le-giang-sinh-lm-an-ton-nguyen-van-do/
[20]Cf. https://baonghean.vn/10-dieu-thu-vi-khong-the-khong-biet-ve-le-giang-sinh-post123894.html
[21] Cf. https://vi.wikipedia.org/wiki/L%E1%BB%85_Gi%C3%A1ng_Sinh
[22] Cf. https://bookhunter.vn/thuong-mai-hoa-giang-sinh-cach-cac-chinh-tri-gia-va-lanh-dao-doanh-nghiep-tao-ra-mot-ngay-le-tang-qua/
[23] Cf. https://gpbuichu.org/news/Suy-tu/giang-sinh-toi-nghiem-chua-13802.html
[24] Cf. https://vietnamnet.vn/giang-sinh-tro-thanh-le-truyen-thong-cua-my-nhu-the-nao-800008.html
[25] Cf. https://gpbuichu.org/news/Suy-tu/giang-sinh-toi-nghiem-chua-13802.html
[26] Cf. Ibid.
[27] Cf. https://www.tonggiaophanhanoi.org/dung-tuc-hoa-le-giang-sinh-song-nhung-bat-ngo-tu-thien-chua/
[28] Cf. Hồng y Carlo M. Martini, Xuất phát lại từ Emmau, Lm. Montfort Phạm Quốc Huyên chuyển ngữ, Nxb. Hồng Đức, tr. 144
[29] Cf. https://gpbuichu.org/news/Suy-tu/chua-khong-lam-nhung-lieu-13822.html
[30] Cf. http://www.vietcatholicnews.net/News/Home/Article/271597
[31] Cf. https://tgpsaigon.net/bai-viet/qua-tang-giang-sinh-38060
[32]Cf. https://www.tonggiaophanhanoi.org/dung-tuc-hoa-le-giang-sinh-song-nhung-bat-ngo-tu-thien-chua/
[33]Cf. https://gpbuichu.org/news/Suy-tu/chua-khong-lam-nhung-lieu-13822.html
Marry Nguyễn