VIỆC KÍNH HÀI CỐT CÁC THÁNH CÓ TỪ BAO GIỜ?
I. VIỆC KÍNH HÀI CỐT CÁC THÁNH CÓ TỪ BAO GIỜ?
Tại nhiều nơi có thói hôn kính xương thánh vào dịp lễ kính vị thánh đó. Và đôi khi người ta còn trưng bày hài cốt các thánh trên bàn thờ. Tục lệ kính hài cốt các thánh có từ bao giờ? Có luật lệ gì về vấn đề này không?
Vấn đề tôn kính hài cốt các thánh tử đạo đã có một lịch sử lâu đời. Và trong phạm vi này, luật lệ của Giáo hội cũng không thiếu. Nói chung, thì luật được đặt ra không phải để bắt buộc các tín hữu phải tôn kính hài cốt các thánh, cho bằng để bài trừ những tệ đoan, hoặc phòng ngừa những lệch lạc. Chúng ta hãy đi ngược dòng lịch sử, để theo dõi tập tục cũng như là luật lệ của Giáo hội. Các Kitô hữu tiên khởi, cũng giống như các người Do thái và Rôma, có thói tục tôn kính thi hài người chết, theo nghĩa là họ không vứt bỏ thây ma người chết ở giữa trời cho chim muông thú rừng tới cắn xé, nhưng mà chôn cất tươm tất trong nghĩa trang. Vào những ngày giỗ, gia đình thân nhân tụ họp lại cạnh ngôi mộ để đọc kinh cầu nguyện. Tuy nhiên, đang khi mà đối với các người qua đời nói chung, thì các tín hữu tưởng nhớ đến họ và cầu nguyện cho họ; nhưng mà đối với các người chết vì đạo, thì các tín hữu lại có tâm tình và thái độ khác. Họ coi cái ngày mà các vị bị giết như là ngày sinh nhật, nghĩa là được sinh vào nước trời. Vì thế, ngày giỗ của các vị được tưởng nhớ không phải với tâm tình thương tiếc khóc lóc như kiểu các người quá cố khác, mà là như buổi lễ. Vào dịp đó, người ta đọc lại hạnh tích của các vị, cách riêng là cuộc tuẫn đạo của các vị. Dù sao, thì cũng nên biết là trong các thế kỷ đầu tiên, các Kitô hữu chưa được phép xây cất những nơi thờ tự. Vì thế, ngoài những buổi họp nhau ở tư gia để cầu nguyện, một địa điểm khác để gặp gỡ là ở ngoài nghĩa trang, trên mồ của các vị tử đạo. Nhà cầm quyền Rôma tôn trọng tính cách thánh thiêng của các nghĩa trang, cho nên họ làm ngơ cho các buổi phụng tự đó.
Như vậy là các Kitô hữu bày tỏ lòng tôn kính với các vị tử đạo, chứ đâu có gì liên can tới hài cốt của các ngài đâu?
Đúng như vậy. Như vừa nói, luật Rôma rất nghiêm ngặt đối với các nghĩa địa, coi như là nơi bất khả xâm phạm. Vì thế không ai được đụng tới các ngôi mộ của người chết và dĩ nhiên là không được đụng tới xác chết. Thế nhưng, từ thế kỷ IV trở đi, một khúc quặt đã xảy ra. Các Kitô hữu được tự do hành đạo. Các thánh đường được cất lên. Tìm địa điểm nào để cất? Nếu mà hỏi các Đức Giám mục hay các cha xứ ngày nay, thì chắc chắn chúng ta sẽ được trả lời là tìm chỗ nào thuận tiện cho bổn đạo tới dâng lễ, thí dụ ở trung tâm thành phố hay ở giữa làng. Thế nhưng, vào hồi thế kỷ IV thì người ta nghĩ khác. Bên thánh địa, thì người ta cất nhà thờ tại các nơi mà Chúa đã đi qua (thí dụ: Nadarét, Bêlem, vườn cây dầu, núi Golgôta, mộ Chúa vv). Còn ở Rôma, thì người ta cất nhà thờ tại những nơi mà các thánh tông đồ đã hy sinh vì đức tin. Đó là tiêu chuẩn để cất các đền thờ kính thánh Phêrô, Phaolô, Lôrenxô, cũng như hàng chục đền thờ khác tại Rôma. Người ta trù tính làm sao để cho bàn thờ được xây liền trên ngôi mộ của thánh tử đạo, để khi dâng Thánh lễ, chúng ta tưởng nhớ cuộc Tử nạn của đức Kitô cũng như những môn đệ đã đi theo chân của Ngài. Từ đó việc cất nhà thờ, hay bàn thờ trên mồ các thánh tử đạo trở thành một tiêu chuẩn được chấp nhận. Thế nhưng một vấn đề cụ thể được đặt ra. Có nơi thì có cả chục vị tử đạo được chôn tại một nghĩa trang. Có nơi thì chẳng có vị tử đạo nào hết. Vì vậy mà có chuyện phải cải hài cốt của các vị, hoặc là để tôn kính ở một chỗ xứng đáng hơn, hay là dành cho những thành phố nào muốn cất nhà thờ mà không có mộ của thánh tử đạo. Tóm lại, trong khi mà việc tôn kính các vị tử đạo đã có từ thời cổ, nhưng việc tôn kính hài cốt của các vị bắt đầu từ thế kỷ IV; hay muốn chính xác hơn, từ khi có những chuyện di chuyển hài cốt của các thánh tử đạo, mới có luật về vấn đề này.
Luật do Giáo hoàng ra hay là của các công đồng?
Theo các sử gia, những luật đầu tiên là của Nhà nước. Bởi vì như đã nói trên đây, cổ luật Rôma rất nghiêm ngặt trong việc bảo vệ các nghĩa trang và thi hài người chết. Vì thế, bây giờ muốn đào mả để lấy hài cốt thì phải sửa lại pháp luật. Tiếp đó, mới tới luật của Giáo hội, nhằm tới nhiều phương diện: thí dụ, cần phải bảo đảm tính cách xác thực (bởi vì thời nào cũng có đồ giả mạo, kể cả xương thánh), và nhất là tránh những thứ dị đoan mê tín cũng như những chuyện buôn thần bán thánh. Trong lịch sử, có những công đồng sau đây đã ra những quy định cho vấn đề này: công đồng Lateranô IV (năm 1215), công đồng Trentô (khóa 25, năm 1563), và công đồng Vaticanô II, trong hiến chế về Hội thánh số 51; hiến chế về phụng vụ số 111; 125.
Những luật vừa nói chỉ liên can tới hài cốt của các thánh tử đạo mà thôi hay sao?
Vấn đề dần dần được mở rộng tới tất cả di tích của các thánh nữa. Trở lại lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy rằng tiếp theo các thánh tử đạo, lịch phụng vụ thêm danh sách các giám mục, tu sĩ nữa. Các tín hữu cũng bày tỏ lòng tôn kính với thi hài các vị ấy. Thế nhưng có lúc mà lòng ngưỡng mộ không phải chỉ dành cho đời sống đạo hạnh của các vị, nhưng mà lan rộng tới hết những gì có liên hệ xa gần tới các vị: từ thi hài, cho tới áo quần, giày dép, vật dụng, cho tới nhà ở, những nơi mà các vị hoạt động, vân vân. Thực ra, thì nguồn gốc của thói tục này có lẽ bắt đầu từ thánh địa; như vừa nói trên, từ thế kỷ IV, vào lúc mà tại Rôma người ta cất nhà thờ trên mồ các thánh tử đạo, thì bên thánh địa, người ta cất nhà thờ tại những chỗ mà Chúa Giêsu, Đức Mẹ đã sống: nhà ở, nơi làm việc, nơi biến hình, nhà tiệc ly, vân vân. Dĩ nhiên, người ta cũng cố gắng đào bới các di tích thánh, nổi bật nhất là cây thánh giá, rồi tới vòng gai, những cây đinh, khăn liệm, rồi tới máng cỏ. Chắc chắn rằng đầu óc tưởng tượng sẽ còn phịa ra nhiều thứ khác, thí dụ tấm tã mà Đức Mẹ đã vấn bọc, cái cưa và dùi đục của thánh Giuse… Đại khái, thì lập luận bình dân cho rằng những gì mà Chúa, Đức Mẹ và các thánh đã đụng chạm tới thì cũng được lây cái chất thánh sang. Không nói ai cũng thể đoán được, cái lập luận đó mang theo nhiều hệ luận thực hành không nhỏ. Vì vậy, mà các nhà chức trách trong Giáo hội đã phải can thiệp dưới tựa đề chung là “di tích của các thánh” (de reliquiis sanctorum).
Những điểm chính mà giáo quyền muốn lưu ý trong vấn đề này không?
Chúng ta có thể phân biệt ba khía cạnh: tín lý, phụng vụ và kỷ luật.
1) Về tín lý, các công đồng không ngừng nhắc nhở rằng hết mọi thứ tôn kính đều phải nhằm tới Thiên Chúa, nguyên ủy của mọi sự trọn lành thánh thiện. Khi tôn kính các thánh, chúng ta ca ngợi công trình mà Thiên Chúa đã thực hiện nơi những con người mỏng dòn. Thứ đến, sự tôn kính các di tích của các thánh phải đưa chúng ta tới chỗ ái mộ bắt chước các vị chứ không nên coi đó như là cái bùa chú. Một thí dụ cụ thể: mục đích tôi đặt di ảnh của mẹ tôi là để nhắc nhớ tôi tới công ơn sinh dưỡng của bà; chứ nếu mà tôi chỉ ôm chặt và suốt ngày hôn hít cái bức hình và tấm khảm thì sớm muộn gì cũng có người sẽ đưa tôi vào bệnh viện tâm thần.
2) Từ những nguyên tắc về tín lý, phụng vụ đã đặt ra những tiêu chuẩn trong việc tôn kính, cách riêng khi có tính cách công khai. Phải làm cách nào để làm nêu bật sự tôn thờ tuyệt đối dành cho Thiên Chúa, và sự cung kính dành cho các tôi tớ của Chúa. Do đó mà trong cách bày biện các di tích của các thánh, chúng ta không thể đặt ngang hàng bên cạnh Mình Thánh Chúa hay Thập giá của Chúa. Cũng vậy, cũng phải trưng bày thế nào để cho người ngoài Công giáo khi vào nhà thờ sẽ không choáng váng trước một rừng các hình tượng và di tích của các thánh: họ sẽ có cảm tưởng là lạc vào một đền đa thần!
3) Sau cùng, về khía cạnh kỷ luật, cần phải kiểm chứng về tính cách xác thực của các di tích đó. Như chúng ta đã biết, vô tình hay hữu ý, không thiếu người lạm dụng sự dễ tin để bịa ra các di tích của các thánh. Một điểm nữa về kỷ luật liên hệ tới vấn đề mua bán các di tích này, vừa lo tránh chuyện mua đồ giả, lại vừa lo tránh chuyện buôn thần bán thánh! Bộ giáo luật hiện hành chứa đựng rất ít điều khoản về vấn đề này (đ.1186-1190). Bởi vậy, chúng ta cần phải quy chiếu tới các luật lệ của Toà thánh (cách riêng là Bộ phong thánh và bộ phụng tự) và của Bản quyền địa phương.
———————–
II. Khi nào buộc phải đọc Kinh cầu các thánh?
Hôm nay là lễ kính các thánh nam nữ. Phụng vụ có buộc phải đọc kinh cầu các thánh vào lễ này không, tựa như đọc kinh cầu Đức Bà và kinh cầu thánh Giuse vào dịp lễ của các vị ấy ?
Thiết tưởng nên xác định cho rõ: Phụng vụ không buộc phải đọc kinh cầu Đức Bà hoặc kinh cầu thánh Giuse vào dịp lễ kính các ngài. Điều đó để tùy thuộc lòng đạo đức của cá nhân hoặc của cộng đoàn thôi. Một cách tương tự như vậy, lễ kính các thánh hôm nay là cơ hội thích hợp để đọc kinh cầu các thánh, nhưng phụng vụ không buộc.
Có lúc nào buộc phải đọc kinh cầu các thánh không?
Có nhiều trường hợp. Theo các sử gia, chứng từ cổ điển nhất về kinh cầu các thánh trong phụng vụ Rôma là vào thời thánh giáo hoàng Grêgôriô Cả: các tín hữu kêu cầu các thánh đang khi đi kiệu để cầu xin cho khỏi bệnh dịch năm 590, và về sau được hát vào ngày 25 tháng 4 để cầu cho mùa màng. Có lẽ vì phải hát trong suốt cuộc rước kiệu dài, cho nên kinh cầu các thánh dài nhất trong số các kinh cầu. Dần dần, kinh cầu các thánh cũng được đọc trong dịp lãnh nhận các bí tích rửa tội cho người lớn và truyền chức thánh. Theo đà đó, người ta cũng đọc kinh cầu các thánh vào dịp khấn dòng, và gần đây bên Italia, kể cả trong lễ hôn phối nữa.
Như vậy kinh cầu các thánh dài nhất và xưa nhất trong các kinh cầu phải không?
Kinh cầu các thánh được coi là xưa nhất theo nghĩa là có trước các kinh cầu khác và trở thành khuôn mẫu cho các kinh cầu (điển hình là kinh cầu Đức Bà). Tuy nhiên trải qua thời gian, đã có nhiều mẫu thức được soạn ra. Vào thế kỷ IX, mẫu thức của vua Ludovicus Germanicus gồm 532 thánh (277 tử đạo, 153 hiển tu, 102 đồng trinh). Mẫu thức hiện hành được dùng trong phụng vụ do Bộ phụng tự ban hành năm 1969 (nghĩa là cách đây 52 năm) cùng với việc cải cách lịch phụng vụ, dựa theo các chỉ thị mà công đồng Vaticanô II đã đề ra (ở số 111 của Hiến chế về phụng vụ). Một vài tiêu chuẩn đã được đặt ra trong việc duyệt lại kinh cầu các thánh là: 1/ loại bỏ những trùng hợp (nghĩa là những sự lặp lại lời cầu hoặc ngay trong kinh cầu, hoặc khi đọc kinh cầu trong Thánh lễ; vì thế khi đã đọc kinh cầu các thánh thì bỏ lời nguyện giáo dân); 2/ duyệt lại danh mục các thánh (loại bỏ những thánh mà lịch sử không chính xác, chẳng hạn như hai thánh tử đạo Gioan và Phaolô, Giêvaxiô và Phôtaxiô, Nicôla); thêm vào những vị thánh thuộc các châu Á, Phi, Mỹ, Úc để biểu lộ tính cách hoàn vũ của Hội thánh; ngoài ra danh sách các vị thánh cũng mang tính cách uyển chuyển: có thể thêm tên thánh của các thánh thuộc về địa phương, dòng tu, hoặc thánh bổn mạng tùy theo trường hợp; 3/ loại bỏ hoặc sửa đổi những lời cầu khẩn không còn thích hợp với thời đại (chẳng hạn: “Xin Chúa chữa chúng con cho khỏi tai ương đất động”, “Xin Chúa hạ kẻ làm nghịch cùng Hội thánh xuống”, “Xin Chúa cho các kẻ lầm lạc trở về cùng một Hội thánh và đem các người ngoại giáo vào đạo thánh Đức Chúa Giêsu); 4/ tính cách uyển chuyển, theo nghĩa là có thể thêm bớt các vị thánh tùy theo hoàn cảnh, cũng như thêm bớt các ý chỉ cầu cho các nhu cầu tùy nơi tùy thời. Trong tinh thần đó, bộ phụng tự cũng soạn ra ba mẫu khác nhau của Kinh cầu các thánh.
– Mẫu một dài nhất, dành cho những lần cầu khẩn trọng thể (litaniae in sollemnibus supplicationibus adhibendae) đặc biệt vào dịp đi kiệu cầu mùa, hoặc những buổi rước kiệu trong mùa Chay.
– Mẫu thứ hai gọn hơn (pro ritibus in quibus consecrationes et sollemnes benedictiones), được dùng trong nghi thức ban bí tích khai tâm đêm Vọng phục sinh, và các nghi thức thánh hiến (chẳng hạn lễ truyền chức, khấn dòng, thánh hiến trinh nữ, hôn phối).
– Mẫu thứ ba ngắn hơn cả, được dùng trong nghi thức phó linh hồn của người mới qua đời. (Thành thực mà nói, còn một mẫu ngắn hơn nữa, đó là trong nghi thức rửa tội các nhi đồng, chỉ gồm có 5 lời cầu).
Cấu trúc của kinh cầu các thánh như thế nào?
Cấu trúc rõ nét nhất của Kinh cầu các thánh được nhận thấy nơi mẫu thứ nhất. Kinh cầu được chia thành 4 phần: 1/ Van xin Thiên Chúa (supplicatio ad Deum), 2/ Kêu cầu các thánh (invocatio sanctorum), 3/ Kêu cầu Chúa Kitô (invocatio ad Christum), 4/ Van xin cho những nhu cầu khác nhau (supplicatio pro diversis necessitatibus).
Phần thứ nhất (nghĩa là mở đầu), gồm hai công thức tùy ý lựa chọn. (a) “Xin Chúa thương xót chúng con, xin Chúa Kitô thương xót chúng con, Xin Chúa thương xót chung con” hoặc (b): “Đức Chúa Cha ngự trên trời, Đức Chúa Con chuộc tội cứu thế, Đức Chúa Thánh Thần, v.v. thương xót chúng con”.
Phần thứ hai là “kêu cầu các thánh” được phân làm bảy nhóm. Đứng đầu là Đức Trinh nữ Maria rồi đến ba tổng thiên thần và kết thúc với “tất cả các thánh thiên thần”. Nhóm thứ hai là các thánh tổ phụ và ngôn sứ (Abraham, Môsê, Elia, Gioan Tẩy giả, Giuse, các thánh tổ phụ và ngôn sứ), Nhóm thứ ba gồm các thánh tông đồ và môn đệ (Phêrô và Phaolô, Anrê, Gioan và Giacôbê, Tôma, Matthêu, tất cả các thánh tông đồ; Luca, Marcô, Barnaba, Maria Mađalêna, tất cả các thánh môn đệ của Chúa). Nhóm thứ tư gồm các thánh tử đạo (Stêphanô, Ignaxiô Antiokia, Polycarpô, Giustinô, Laurensô, Cyprianô, Bonifaxiô, Tôma Becket, Gioan Fisher và Tôma More, Phaolô Miki, Isaac Jogues và Gioan Brébeuf, Phêrô Chanel, Carôlô Lwanga, Perpetua và Felicita, Agnes, Maria Goretti). Chúng ta thấy sự hiện của các vị tử đạo tại Nhật, Canada, Đại dương châu và Uganda. Nhóm thứ năm gồm các thánh giám mục và tiến sĩ (Lêô và Grêgôriô, Ambrôsiô, Hierônimô, Augustinô, Athanasiô, Gioan Kim khẩu, Martinô, Patrixiô, Cyrillô và Mêtôđiô, Carlô Borrômêô, Phanxicô de Sales, Piô X). Nhóm thứ sáu là các thánh linh mục và tu sĩ (Antôn, Bênêđictô, Bênađô, Phanxicô và Đaminh, Tôma Aquinô, Ignaxiô Loyola, Phanxicô Xavie, Vinhsơn Phaolô, Gioan Maria Vianney, Gioan Boscô, Catarina Siena, Têrêsa Giêsu, Rosa Lima). Sau cùng là các thánh giáo dân (Luy, Monica, Elizabeth Hungari), và lời cầu: “tất cả các thánh nam nữ của Thiên Chúa”, kết thúc phần thứ hai.
Phần thứ ba mang tiêu đề là Kêu cầu Đức Kitô: Xin Chúa cứu chữa (giải thoát) chúng con: khỏi mọi sự dữ, khỏi mọi tội lỗi, khỏi những mưu chước ma quỉ, khỏi giận dữ hận thù và ác ý, khỏi án chết đời đời. Vì mầu nhiệm Chúa nhập thể, giáng sinh, lãnh phép rửa và chay tịnh, thập giá và khổ nạn, cái chết và mai táng, sự sống lại và lên trời hiển vinh, trút ban Thánh Thần, quang lâm.
Phần thứ bốn là những lời van xin cho các nhu cầu khác nhau, cộng đoàn đáp lại “Xin Chúa nghe cho chúng con” tiếp theo những ý nguyện xin Chúa tha thứ tội lỗi, ban cho chúng ta được thành tâm thống hối, cho chúng ta kiên tâm phụng sự Chúa, trả ơn cho các ân nhân, cho đất đai mang lại hoa trái dồi dào, xin cai quản và giữ gìn Hội thánh, xin trợ giúp đức thánh cha và các giáo sĩ trong tác vụ của mình, xin cho tất cả mọi Kitô hữu được hợp nhất, xin dẫn dắt tất cả mọi người đến ánh sáng Tin mừng. Sau cùng là phần kết luận.
Thời Trung cổ, danh sách các thánh trong kinh cầu lên đến hơn 500 vị. Còn bản kinh hiện hành thì sao?
Con số các thánh không cố định, bởi vì có thể tăng thêm hoặc giảm bớt tùy hoàn cảnh. Điều quan trọng là phải tôn trọng thứ tự hàng ngũ các thánh, đó là: tông đồ, tử đạo, giám mục, linh mục tu sĩ, giáo dân. Trong mỗi hàng ngũ, tôn trọng thứ tự thời gian tuổi tác. Vì thế ở Việt Nam nếu muốn thêm các thánh tử đạo vì phải xen vào hàng ngũ tử đạo, nghĩa là trước các thánh hiển tu, chứ không phải ở cuối sổ. Ta có thể thấy một thí dụ về sự thích nghi nơi mẫu số 2. Danh sách các thánh đã được rút ngắn vào 25 vị thánh: Micae, Gioan Tẩy giả, Giuse, Phêrô và Phaolô, Anrê, Gioan, Maria Mađalêna, Stêphanô, Ignaxiô Antiôkia, Lorensô, Perpetua và Felicita, Agnes, Grêgôriô, Augustinô, Athanasiô, Basiliô, Martinô, Bênêđictô, Phanxicô và Đaminh, Phanxicô Xavier, Catarina Siena, Têrêsa Giêsu. Trong nghi thức tấn phong giám mục, danh tánh tất cả các thánh tông đồ đều được xướng lên theo thứ tự như sau: Phêrô, Phaolô, Anrê, Giacôbê, Tôma, Giacôbê, Philipphê, Bartôlômêô, Simon, Tađêô, Matthia. Trong lễ phong chức linh mục thì không thêm vị nào khác, nhưng trong lễ phong chức phó tế thì thêm hai thánh Vincentê (đi sau thánh Lorensô) và thánh Ephrem (theo sau thánh Basiliô). Trong lễ khấn trọn đời của các tu sĩ thì bỏ cac thánh Inhaxiô Antiôkia, Grêgôriô, Atanasiô, Martinô, Phanxicô Xavier, Gioan Maria Vianney, và nếu là nam tu sĩ thì thêm Bênađô, Ignaxiô Loyola, Vinh sơn Phaolô, Gioan Boscô, còn lễ khấn các nữ tu thì thêm các thánh nữ Macrina, Clara, Catarina Siena, Rosa Lima, Gioanna Francisca de Chantal, Louise Marillac. Dĩ nhiên là có thể thêm các thánh riêng của dòng. Trong nghi lễ chúc phong viện phụ, thì bỏ tên thánh Catarina Siena, và thêm các thánh Columbanô, Bêđa, Romualđô, Brunô, Bênađô, hai thánh nữ Scolastica và Clara. Nên biết là các lời khẩn nguyện cho các nhu cầu trong các dịp truyền chức, khấn dòng cũng được thích nghi theo hoàn cảnh. Tuy nhiên, có lẽ điều gây ấn tượng cho cộng đoàn là thấy các ứng sinh nằm phủ phục dưới đất, và xin sự chuyển cầu của các thánh nhân trên trời cũng như các anh chị em thuộc cùng Hội thánh lữ hành. Giuse Phan Tấn Thành, OP