SỰ KHÁC BIỆT GIỮA THIỀN ĐỊNH VÀ CẦU NGUYỆN CỦA KITÔ GIÁO
Khi còn tu học trong chùa, tôi đọc bộ sách thiền luận của Suzuki, một thiền sư người Nhật, khoảng giữa thế kỷ 19-20.
Trong chương cuối của bộ thiền luận nổi tiếng này, thiền sư Suzuki cho rằng thiền Phật Giáo giống như sự cầu nguyện của những tín hữu Kitô Giáo. Hồi đó tôi cảm phục thiền sư Suzuki lắm, vì tin rằng ông là người thông hiểu Phật Giáo và cả Cơ-đốc Giáo!
Nhờ có dịp đọc Kinh Thánh, tôi tin Chúa và từng bước kinh nghiệm đời sống Đức Tin trong Chúa, tâm trí tôi được mở ra để nhìn biết sự sống thật của thế giới thuộc linh đầy phước hạnh được chỉ dẫn rõ ràng trong Thánh Kinh. Thế rồi tôi đọc lại bộ Thiền Luận, và nhận ra rằng thiền sư Suzuki đã viết một cách quyết đoán về những điều quan trọng mà ông chưa hề sống qua. Thiền sư Suzuki chưa bao giờ tin Chúa, chưa bao giờ cầu nguyện với Chúa, thế mà ông đã viết một chương sách cho rằng Thiền Phật Giáo và sự cầu nguyện của tín hữu Kitô Giáo giống nhau!
Ngày nay có nhiều thiền sư nổi tiếng cũng can đảm như thiền sư Suzuki. Họ dám viết những điều mà họ chưa thật sự từng trải. Vì trọng sự chân thật, tôi thấy cần ghi ra một số nét khác nhau rất cơ bản về thiền Phật Giáo và sự cầu nguyện của tín hữu Kitô Giáo. Bản thân tôi đã tu thiền và cũng đang là một cơ đốc nhân, tôi thấy Thiền Phật Giáo và Sự Cầu Nguyện của người tin Chúa rất khác nhau cả phương pháp, mục đích và kết quả.
Thiền Định
- Mục đích:
- Tu Thân và tâm, tìm an lạc giải thoát.
- Diệt trừ phiền não, vọng nghiệp.
- Chữa một số bệnh tật trong thân thể.
- Tìm kiếm sự giác ngộ để biết quá khứ hiện tại và tương lai của mình và của vạn vật.
- Đạt đến sự giác ngộ chân không diệu hữu (vô ngã): thành Phật.
- Cách thực hiện:
- Bước đầu là tập ngồi, tập thở đều đặn và đếm hơi thở để định tâm.
- Cá nhân hành đạo, đặt niềm tin vào chính mình, tự lực đạt đến sự giác ngộ rốt ráo.
- Buộc thân thể phải tuân theo kỷ luật như giữ giới, ngồi yên một chỗ thật đúng cách, đúng giờ và kéo dài hàng giờ hay cả buổi.
- Buộc tâm trí không loạn động, không cho phép tư dục kích động, không để tạp ý lôi kéo ra ngoài sự tĩnh tâm.
- Những trở ngại thường gặp:
- Trẻ con không chịu ngồi thiền. Tuổi cao, sức khỏe thiếu: khó ngồi lâu vì dễ bị tê chân, dễ sinh bực bội.
- Trong khi ngồi thiền, ý tưởng miên man khó tập trung. Ra khỏi thiền định, khó giữ giới, nhưng không ý thức được vấn nạn này, vì ít ai muốn biết mình không giữ được giới.
- Người tu thiền là người cố gắng tự chủ, nhưng càng cố gắng tự chủ thì càng dễ bị xáo trộn, hoặc dễ bị rơi vào tình trạng tự lừa dối mình hết sức tinh vi. Càng tỏ ra diệt dục vọng, càng bị khiển bởi dục vọng. Càng cố gắng xả bỏ càng dễ gây mâu thuẫn với mục đích xả bỏ.
- Khi đã ngồi quen thì dễ ngủ quên trong “tham thiền nhập định”, gọi là bệnh thùy miên, bệnh này chữa được bệnh mất ngủ khá công hiệu.
- Hoàn cảnh gần như người nhà nói chuyện, tiếng muỗi bay vo ve, tiếng còi xe ngoài đường…cũng gây trở ngại khiến cho người ngồi thiền khó định tâm; đôi lúc vì thế mà càng thêm phiền não.
- Những người đau yếu, tuổi quá cao không thể ngồi thiền.
- Bị ràng buộc bởi công tác hay việc làm ăn sinh sống.
- Kết quả.
- Sau một thời gian chuyên tâm thiền định, có thể đạt đến thói quen ngồi lâu nhưng ít tê chân, không mỏi mệt. Cũng có khi sự tê chân xảy ra toàn diện đến nỗi thiền giả không còn biết đôi chân của mình ở đâu. Sau khi thiền, phải xoa bóp thật nhiều mới lấy lại cảm giác bình thường, lúc đó tâm hồn thư thái; thiền giả tưởng rằng mình đã tự vứt bỏ được những phiền não, nhưng tiếp theo sau trạng thái vui vẻ (an lạc) tạm thời ấy, thiền giả thường móng tâm kiêu ngạo, tự mãn và trở lại phiền bực như trước. Cũng có người tạo được bản lĩnh tự chủ nhất thời.
- Dễ bị ảo giác như thấy ma quỷ khiến thiền giả hoảng hốt, lo sợ, loạn trí; có khi lơ là với ngoại cảnh kể cả người thân, hoặc bị điên loạn có thể dẫn đến tình trạng tự tử… cũng khá phổ biến. Thường là bị hoang tưởng, cho rằng mình đã thành Phật, đã vào cõi niết bàn… Tại Chùa Huỳnh Kim, Gò Vấp, năm 1969, có một vị thiền sư đang ngồi thiền, bất ngờ đánh vỡ đầu người đệ tử của mình bằng cái dùi mõ. Nhưng vị thiền sư này vẫn tin chắc là mình đã giết một con quỷ. Giới đồng đạo, không ai có một lý lẽ nào để kết án ông được! Trong sách Phật Giáo Huyền Bí Tây Tạng có nói đến một vị đạo sỹ đang thiền định bên bìa rừng, bất ngờ đứng lên tóm lấy một cô gái đang đi qua để hiếp dâm. Vị đạo sỹ giải thích rằng trong khi ngồi thiền, ông chứng quả thần tông nên thấy một a-lai-gia thức (tạm gọi là một linh hồn người đã chết) sắp sửa đầu thai vào bụng con trâu cái khi một đôi trâu đang động dục. Bài học giáo lý dạy rằng nhờ thông tuệ của bậc Bồ Tát hạnh, vị đạo sỹ ấy đã kịp thời cưỡng dâm cô gái để tạo duyên cho linh hồn ấy đầu thai làm kiếp người, khỏi bị đầu thai làm kiếp trâu. Năm 1966 ở Nha Trang có một giáo sư toán, người Huế đã tự tử sau một thời gian thiền định. Năm 1981, anh Ẩn, ở gần nhà tôi đã tự tử sau một thời gian thiền định.
- Sách vở ghi lại vô số vị tu hành đạt đạo nhờ thiền định sau thế hệ Đức Thích Ca, nhưng chưa có một người nào chứng tỏ rằng mình đã giác ngộ như Đức Thích Ca. Vị Thiền Sư đã dạy cho tôi tu thiền theo Kinh Pháp Hoa tại Phú Nhuận 1973-1975, là một người khôi ngô, khoảng 45-50 tuổi, chuyên mặc bộ bà ba trắng, hút thuốc ba số 555, tự nhận mình đã thành chánh quả, hiệu là Phổ Quang Phật, nhưng ngài có 4 vợ. Cuối năm 1974, ngài cưới thêm một bà thứ năm. Tôi nghe một số người nói rằng ngài đã di tản ra nước ngoài trước 30.4.1975, nhưng tôi hoàn toàn mất liên lạc.
- Nhiều người trí thức đem thiền vào thi ca, hội họa, âm nhạc, triết lý… mặc dầu họ chưa bao giờ chứng minh cụ thể rằng mình đã giác ngộ thiền. Vì thế thiền là một lối tu hay là một lối sống yên tĩnh của những người trí thức, nghệ sỹ, dù trong số đó có rất nhiều người chưa thật sự tọa thiền, thậm chí chưa hiểu thiền là gì. Họ xem những thưởng ngoạn thiên nhiên, chơi hoa cảnh, trà đạo… là một phần của pháp môn tu chứng, giải thoát, giác ngộ, đem “thiền” vào đời sống. Đây là nét mạo nhận về thiền định bàng bạc trong văn hóa Á Đông từ xưa đến nay.
Trên lý thuyết, thiền được mô tả như là một sự thức tỉnh, tự do, giải thoát với cuộc sống bình an, thanh tịnh khi con người giữ được sự nhiếp tâm liên tục đến nỗi đi, đứng, nằm ngồi đều bất ly thiền định. Trên thực tế, một người đạt đến sự tự tin tuyệt đối là điều không thể có. Ít ra người ấy cũng có thể tin được rằng mình không có khả năng làm cho mình trẻ mãi, cũng như không biết bao giờ mình chết hay là thành Phật trước khi chết như Đức Thích Ca. Vậy làm sao mà nói rằng mình là chúa tể của mình? Ngày nay nhiều người trí thức gián tiếp hoặc trực tiếp tự nhận mình có tinh thần thiền; hay có lối sống thiền. Tương tự như cách của thiền sư Suzuki, tiến sỹ TKĐ viết một bài báo nói đến sự giác ngộ thấy được “tâm con vi trùng” (1) Hoặc như thiền sư Nhất Hạnh viết về Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần để đồng hóa với Đức Phật, trong khi chính ông là người không tin Chúa (2), hơn nữa nội dung Kinh Thánh và giáo lý Phật Giáo cũng khác nhau hoàn toàn.
Hàng trăm năm sau này, tốc độ sống của nhân loại càng gia tăng khủng khiếp, sự suy nghĩ của con người càng lệ thuộc nhiều hơn vào những máy móc do họ tìm tòi chế tạo, khi ấy, ai đọc sách của thiền sư Suzuki, tiến sỹ TKD, thiền sư Nhất Hạnh trong Luận Tạng, không chừng người ta sẽ nghĩ rằng cả ba vị ấy đã thành Phật rồi!
Khác với các sự kiện ấy, Thánh Kinh chỉ ngắn gọn khuyên con dân Chúa rằng “Hãy tỉnh thức, kẻo có ai lấy triết học và lời hư không, theo lời truyền khẩu của loài người, sơ học của thế gian, không theo Đấng Christ, mà bắt anh em phục chăng.” (Cl 2,8). Thánh Kinh cũng đã xác nhận cụ thể rằng “Dầu bề ngoài có vẻ khôn ngoan, là bởi thờ lạy theo ý riêng, cách khiêm nhượng và khắc khổ thân thể mình; nhưng không ích chi để chống cự lòng dục của xác thịt.” (Cl 2,23).
- Một số môn phái thiền quen thuộc đối với người Việt.
* Thiền Yoga Ấn-độ: Thiền giả kiên trì tập luyện những tư thế yoga lắc léo để giữ thân thể tham thiền theo các tư thế ấy rất lâu. Thiền Yoga bắt đầu với những người trẻ tuổi là thích hợp hơn cả. Có người cho rằng thể dục thư giản, tập dịch-cân-kinh, thái cực quyền của người lớn tuổi, hay tập một vài thế Yoga cũng được cho là khởi đầu thực hành thiền định, nhưng đó hoàn toàn không phải là thiền Yoga Ấn-độ.
* Thiền Thông Thiên Học: Là một trong những giáo phái thiền cũng xuất phát từ Ấn Độ vào đầu thế kỷ 17, truyền đến Việt Nam vào cuối thế kỷ 19. Trong thập niên 1990, tôi gặp những thiền giả Thông-Thiên-Học ở Sài Gòn, Bình Dương, Thủ Đức, Nhà Bè. Họ cho tôi xem và nghe giáo lý của Thiền Thông Thiên Học trong băng vidéo. Tôi bắt gặp nhiều câu Kinh Thánh trích từ sách Khải Huyền nhưng đã bị sửa lại cả văn mạch lẫn nội dung để phù hợp với giáo lý của Thiền Thông Thiên Học!
* Thiền Tịnh Độ: Giữ giới và niệm danh hiệu Phật A-Di-Đà để neo tâm vào thiền định. Câu kinh nền tảng của Thiền Tịnh Độ là “Niệm một câu Nam Mô A Di Đà Phật đủ tiêu tan tám vạn bốn ngàn kiếp sinh tử trọng tội”. Phật Giáo không dạy cụ thể về sự xé lòng ăn năn tội, cũng không tin rằng có một đấng thiêng liêng kết tội hay tha tội cho con người. Phật Giáo không có giáo lý về sự tha tội. Người phật tử làm lễ sám hối, tức là đọc những bài kinh viết sẵn, đọc thần chú diệt tội và lạy Hồng Danh (108 vị Phật). Tâm hồn người làm lễ sám hối không có sự ăn năn thống hối mà chỉ thuần túy là lễ nghi tụng niệm. Thông thường, thiền giả Tịnh Độ Tông ngồi yên và niệm vài chục chuỗi danh hiệu Phật là xong một lần thiền; sau đó thiền giả cảm thấy bình tịnh, thoải mái. Một chuỗi dài nhất là 108 hạt. Tâm niệm, hoặc miệng niệm một câu, ngón tay lần qua một hạt cho đến khi hết chuỗi hạt. Trong thực tế tâm hồn người Việt Nam vẫn có niềm tin chung chung rằng Trời phạt kẻ ác, Trời thương kẻ lành. Niềm tin “Ông Trời” có tự trong thâm tâm nhân loại với nhiều văn hóa khác nhau trước khi nhiều tôn giáo xuất hiện.
* Thiền Mật Tông: Giữ giới, ngồi thiền và niệm thần chú để neo tâm vào chỗ đại định.
* Tụng kinh, đọc kinh, lần tràng hạt của Phật Giáo và Công Giáo, Hồi Giáo không phải là thiền định, mặc dù sự đọc kinh giúp người hành đạo tự neo tâm vào một chỗ, tự an ủi tạm thời, tự trấn an mình bằng cách lặp đi lặp lại nhiều lần những bài kinh viết sẵn.
* Thiền Tông Trung Hoa rất chú trọng công phu tọa thiền. Sách giáo lý Thiền viết rằng vị tổ sư đầu tiên của Thiền Trung Hoa là ngài Đạt Ma đến từ Ấn Độ. Ông đã ngồi thiền liên tục 9 năm xây mặt vào trong vách đá (cửu niên diện bích) không ăn uống gì cả mà vẫn sống! Người tu thiền tin điều này là có thật. Thiền Tông Trung Hoa truyền đến vị tổ thứ năm, là thiền sư Hoằng Nhẫn. Khi ngũ tổ Hoằng Nhẫn đã về già, xảy ra một cuộc tranh chấp quyền thừa kế y-bát giữa hai khuynh hướng khác nhau của hai đại đệ tử: Thần Tú và Huệ Năng. Cuối cùng ngài Hoằng Nhẫn phải lén lút trao y bát cho Huệ Năng để tránh họa huynh đệ tương tàn, nhưng sau đó Thiền Tông vẫn bị phân rẽ. Từ đời lục tổ Huệ Năng đến nay, không còn thêm vị thiền tổ nào khác nữa, nhưng Thiền Tông vẫn phát triển thành nhiều môn phái khác nhau mang đặc tính văn hóa Trung Hoa rất phong phú.
* Thiền Pháp Luân Công là một biến thể đặc trưng của văn hóa Trung Hoa – Trung Hoa có nền Văn hóa lâu đời. Văn viết của Trung Hoa có mối liên hệ đặc biệt với Thánh Kinh Cựu Ước, là quyển sách đã xuất hiện khoảng hai ngàn năm tại Trung Đông trước khi Đức Thích Ca ra đời tại Ấn độ. Ngày nay các nhà nghiên cứu tìm thấy mối liên hệ đáng ngạc nhiên trong những chữ tượng hình và tượng ý xưa nhất của văn viết Trung Hoa với Thánh Kinh (4). Nhưng Phật Giáo du nhập vào Trung Hoa cũng rất sớm (trước công nguyên không bao lâu), và thịnh hành từ đời Đường (Thế kỷ thứ 6-7). Cả hai ảnh hưởng của Thánh Kinh và Phật Giáo đã làm cho nền văn hóa, triết học và luân lý Trung Hoa thêm phong phú qua suốt lịch sử khổ đau, áp bức, nghèo đói, hưng thịnh và dần dần hình thành nếp sống tôn giáo, nghệ thuật, triết lý, đạo lý Trung Hoa. Ví dụ Pháp Luân Công mà nhiều người quen gọi là Thiền Pháp Luân Công. Nhìn bên ngoài, môn phái này rất giống với Thiền Phật Giáo Trung Hoa, tuy họ không nhận mình là Phật Giáo.
* Dục thiền: Phái thiền này cho phép người hành đạo trực tiếp va chạm với nhục dục để chiến thắng nó. Nam nữ trần truồng, cùng nhau kích thích cảm giác nhục dục lên tột độ nhưng cấm thỏa mãn. Khi sự ham muốn nhục dục lên cao thì tâm trí thiền giả chỉ nhiếp quán vào đó mà không bị xao lãng qua chuyện khác. Đây là một cách định tâm xua tan phiền não. Tiếp đến, người hành đạo dùng tâm lực và ý chí tiêu diệt sự thèm khát nhục dục trong thân thể mình. Đây là cách đạt đến trạng thái định tâm, đồng thời rèn luyện khả năng chiến thắng tình dục xác thịt (lấy nhục dục trị nhục). Pháp môn thiền này ít được phổ biến rộng rãi. Trước 1975, ở miền Nam Việt Nam cũng có người tu theo phái thiền này. Lúc đó dư luận gọi các tu sỹ này là “Đạo Rờ”. Trong thập niên 1980 tại thành phố Đà-Lạt có một tăng đoàn nam và nữ tu theo pháp môn này, nhưng bị chính quyền bắt bỏ tù và giải tán. Vấn đề này đã một thời xôn xao trên các báo chí tại Việt Nam.
Ghi chú thêm:
Theo giáo lý đạo Phật, thiền là pháp môn cao nhất giúp người tu hành chóng giác ngộ. Lịch sử Phật Giáo ghi lại rằng sau khi từ bỏ hoàng cung, thái tử Tất Đạt Đa học đạo và tu theo pháp môn Khổ Hạnh của năm anh em Kiều Trần Như. Sau sáu năm tu khổ hạnh, thái tử nhận thấy pháp môn này sai lạc, bèn rời bỏ. Khi ấy thân thể thái tử đã gầy yếu gần kiệt lực. Một cô gái chăn dê tên là Tu-xà-đề tặng thái tử một bát sữa dê. Nhờ bát sữa dê, thái tử phục hồi sức khỏe và ngồi dưới gốc cây bồ đề phát lời thề rằng “Nếu không tìm ra chân lý, ta thà chết, chứ không rời bỏ chỗ nầy.” Sau 49 ngày đêm tham thiền nhập định, thái tử đã thành Phật vào lúc nửa đêm. Đêm đó, ma vương hiện hình cô gái trần truồng để cám dỗ thái tử, nhưng ma vương đã thất bại. Các loài thú rừng biết thái tử vừa mới thành Phật, chúng đem các thứ trái cây ngon nhất dâng cho Ngài. Một con mãng xà có nhiều đầu cũng đến hầu Ngài. Rắn đã xòe các đầu ra làm thành một cái tán che Đức Phật từ phía sau lưng. Câu chuyện lịch sử này đã gây cảm hứng trên nhiều thế hệ nghệ nhân. Hằng triệu bức tượng Phật ngồi nhập định dưới mái che bởi những đầu rắn hổ mang đã được sáng tác và lưu hành qua nhiều thế kỷ.
Giáo lý Thiền dạy rằng người tu hành phải từ bỏ bản ngã và diệt trừ cả ý muốn thành Phật, thì sự tu hành mới đạt đến chánh quả. Khi cái tâm còn ham muốn thành Phật, tức là cái tâm còn tham dục, còn chấp ngã thì không thể thành Phật được. Nhưng theo đại thừa Bát Nhã Tâm Kinh thì cái gì đã gọi là rốt ráo tức là không rốt ráo. Và không rốt ráo mới là rốt ráo! Đó là ý nghĩa cao siêu của câu kinh tụng: “bất khả tư, bất khả nghị, bất khả lượng, bất khả thuyết; hay nói gọn là “bất khả tư nghị”, hoặc nói theo lời của một bài kinh nhật tụng là “Đạo cảm thông không thể nghỉ bàn.”