LOAN BÁO TIN MỪNG CHO CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG KHÁC TẠI VIỆT NAM
MƯỜI HAI LỜI KHUYÊN CỦA ĐỨC THÁNH CHA PHANXICÔ
ĐỂ TRỞ THÀNH NGƯỜI CỪ KHÔI TRONG VIỆC LOAN BÁO TIN MỪNG
LOAN BÁO TIN MỪNG CHO CÁC TÔN GIÁO VÀ TÍN NGƯỠNG KHÁC TẠI VIỆT NAM
Lm. Pet. Nguyễn Hữu Đào (Hiền Lâm)
Trong phần này, chúng ta cùng duyệt lại cái nhìn mang tính nguyên tắc của Giáo Hội về các tôn giáo, một số hình thức tín ngưỡng và tôn giáo phổ thông ở Việt Nam và cuối cùng là hiểu biết hơn về những khó khăn từ thế quyền đương tại.
I. NGUYÊN TẮC CHUNG
Giáo Hội cho rằng “những ai chưa đón nhận Tin Mừng cũng quy hướng về Dân Thiên Chúa bằng những hình thức khác nhau” (LG 16) và rằng có những điều tốt đẹp và chân thật trong các tôn giáo khác; những điều tốt đẹp và chân thật này có giá trị và ý nghĩa như một sự chuẩn bị cho việc đón nhận Tin Mừng (x. LG 16; NA 2).
Tuy nhiên, Giáo Hội cũng thừa nhận rằng “trong cách thực hành tín ngưỡng của mình, người ta cũng biểu lộ những giới hạn và những sai lầm làm méo mó hình ảnh Thiên Chúa” (GLHTCG 844).
Như vậy, áp dụng vào việc LBTM, một mặt tác viên LBTM có cái nhìn tích cực để tìm ra và nhìn nhận những điều tốt đẹp nơi các tôn giáo và tín ngưỡng khác, để khích lệ những con người theo các tôn giáo và tín ngưỡng đó, đồng thời cho họ thấy Tin Mừng gần gũi và nâng cao các giá trị tốt đẹp của họ thế nào. Mặt khác, tác viên LBTM cũng tỉnh táo và có một cái nhìn ngôn sứ để nhận ra những lệch lạc hay giới hạn của các tôn giáo và tín ngưỡng đó, để cảnh giác và giáo huấn những tín đồ theo đúng các giá trị Tin Mừng.
Muốn “rửa tội” cho các tín ngưỡng khác, thì trước hết phải hiểu biết về những điều họ đang tin và tập tục họ họ đang sống. Chúng ta không thể loan báo Tin Mừng Chúa Ki-tô cho các tôn giáo khác, nếu chúng ta không biết gì về họ. Việc loan báo Tin Mừng, chắc chắn không đồng nhất với văn hóa, và chúng độc lập đối với tất cả các nền văn hóa, tuy nhiên, thế giới mà Tin Mừng được rao giảng được sống bởi những con người có mối liên hệ sâu sắc với văn hóa, và việc xây dựng Nước Trời không thể tránh khỏi việc vay mượn những yếu tố của văn hóa nhân loại và các nền văn hóa. Mặc dù độc lập với các nền văn hóa, nhưng Tin Mừng và việc loan báo Tin Mừng không nhất thiết phải xung khắc với các nền văn hóa; thay vào đó chúng có khả năng thẩm thấu vào tất cả các nền văn hóa mà không trở nên tùy thuộc vào chúng.
II. SƠ LƯỢC CÁC TÔN GIÁO TẠI VIỆT NAM.
1. PHẬT GIÁO.
– Sáng lập
Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ, do Sakyamuni (Thích Ca Mâu Ni) sáng lập (thế kỷ VI TCN). Ngài là một Thái tử, đã kết hôn và có con nhưng vì cảm nghiệm thấy cuộc đời nhiều khổ đau nên đã quyết tìm con đường giải thoát. Sau 6 năm gian khổ, trải qua nhiều phương pháp thực hành khác nhau, đến năm 36 tuổi ngài đã giác ngộ (thấy được chân lý của vũ trụ, nhân sinh và đạt tới hạnh phúc trọn vẹn). Tất cả những lời giảng của ngài được tập hợp lại sau đó, được gọi là Kinh Phật.
Tự bản chất Phật giáo vốn không phải là một tôn giáo, mà là một hệ thống tư tưởng triết học có tính hiện sinh, dùng để áp dụng vào đời sống để tránh những lầm lạc và đạt tới mục đích cao nhất là hạnh phúc (viên mãn) bằng con đường của trí tuệ sáng suốt dựa trên nỗ lực và sự tự chủ của cá nhân mỗi người. Tự thời Đức Phật không hề có chuyện nói đến Phật là một bậc thần thánh có quyền năng ban ơn cho ai. Nhưng từ sau kết tập lần cuối (sau khi Đức Phật qua đời), các học trò truyền giáo về phía Bắc (Bắc Tông – Đại Thừa), qua Trung Quốc đã hội nhập biến Đức Phật thành một Đấng ngự cõi Tây Thiên với rất nhiều vị phật cùng nhiều cấp khác từ Phật đến Bồ Tát và La Hán… Những học trò Đức Phật truyền giáo về phía Nam (Nam Tông – Tiểu Thừa) cho đến nay vẫn giữ được tính nguyên thủy về giáo lý của Đức Phật).
– Tư tưởng Giáo lý
Nhiều bộ Kinh phức tạp khó có thể lãnh ngộ hết được, nhưng chúng ta có thể tìm hiểu điều căn bản nhất chỉ với 4 chữ “tứ diệu đế”: khổ – tập – diệt – đạo. Đây là “4 sự thật cao quý” – hay còn gọi là 4 chân lý căn bản, và người phật giáo phải hiểu được một cách thấu triệt để ra khỏi những nỗi khổ của đời sống.
– Đường lối tu hành
Tu là sửa mình, sửa lại cái sai bằng cách suy nghĩ, nói năng, hành động đúng. Tụng kinh, ăn chay, niệm Phật, ngồi thiền, cúng dường… sẽ không phải là tu nếu nó không lấy việc sửa mình làm mục đích. Nếu một người Phật tử làm một hành động nào đó, như ăn chay chẳng hạn, để mong được ban phước (hay được phước đức) thì đó không phải là một người Phật giáo. Cái ý muốn ấy là ý muốn của kẻ tham lam và ích kỉ, chỉ muốn đổi chác bằng cách bỏ ít để lấy nhiều; nó đồng thời là một sự mê tín khi không hiểu rằng ăn chay là cách nuôi dưỡng tình yêu thương với động vật, lòng yêu thương ấy sinh ra năng lượng tích cực và niềm hạnh phúc tự sinh khởi từ tâm ý tốt lành ấy; con người sống tốt lành, vô cầu vô dục thì trí tuệ sáng suốt, và đồng thời sẽ nhận được tình yêu thương từ mọi người mọi vật.
Phật Giáo tu dựa trên Giới – Định – Tuệ:
– Giới là sự ngăn giữ mình trong khuôn khổ đạo đức để không phạm vào những tội ác (giết hại, trộm cắp, tà dâm, nói dối…);
– Định là làm cho tâm yên ổn lại bằng cách trụ vào một đối tượng nào đó (ví dụ như trụ vào hơi thở – luôn biết hơi thở vào – ra chứ không để ý nghĩ lang thang chỗ khác) để đạt tới trạng thái quân bình.
– Tuệ là quan sát, suy nghĩ, tư duy đúng đắn – phải thấy biết được bản chất của thế giới và đời sống một cách chân thật (thấy được sự dời đổi vô thường, thấy được bản chất của đời sống là khổ, thấy được cái “tôi” là giả…).
Nhờ đó mà vượt qua tứ khổ: Ái biệt ly khổ, oán tằng hợp khổ, cầu bất đắc khổ, ngũ uẩn thịnh khổ; và vượt qua khổ đế: sinh, lão, bệnh, tử khổ.
Tất cả mọi tông phái của Phật giáo đều là tu Định, tức làm cho tâm an trụ lại, chứ không để bị rơi vào tán loạn, rong ruổi mà đánh mất “chánh niệm”. Niệm Phật (Nam mô A Di Đà Phật) không phải là kêu tên cho Phật nghe, hay kêu Phật đến giúp (!) mà là làm cho tâm an trụ vào câu Phật hiệu này, và chỉ an trụ vào câu Phật hiệu, không để ý nghĩ lang thang. Niệm lâu ngày thì từ cái tâm lăng xăng nhảy nhót dần “thuần” lại, tức “định” lại, đạt tới “nhất tâm bất loạn”. Khi tâm định lại rồi thì trí tuệ sẽ sáng suốt, như nước lặng thì mặt trời hiện, mây tan thì mặt trăng tỏa rạng.
Xin nhớ rằng, mọi sự thực hành trong đường lối của Phật giáo là đều nhằm để khắc chế cái tâm động loạn và vô minh này. Và mọi sự “tu hành” phải lấy việc hướng nội làm tông chỉ. Hướng ngoại tìm cầu đều là đường tà. Cho nên mới có câu “Phật tại tâm” là vì thế.
Phật tử cần sống Bát chánh đạo[1]: Chánh kiến (hiểu biết chân chánh), Chánh tư duy (suy nghĩ chân chánh), Chánh ngữ (lời nói chân chánh), Chánh nghiệp (hành động chân chánh), Chánh mạng (đời sống chân chánh), Chánh tinh tấn (siêng năng chân chánh), Chánh niệm (nhớ nhung – ý niệm chân chánh) và Chánh định (Làm cho tâm an tĩnh – đạt đạo).
Để thoát luân hồi và nhập niết-bàn cần vượt ra ngoài Thập nhị nhân duyên: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, sinh, lão tử [2].
* Cách Loan Báo Tin Mừng cho Phật tử.
Có thể nói, Giáo lý Phật Giáo quá nhiều và phức tạp, chỉ những tăng ni tu hành mới học hết được. Vì thế, khi LBTM cho các Phật Tử, thiết nghĩ chỉ cần chúng ta dựa trên Giáo lý Phật giáo về “Diệt khổ”, “Bát Chánh đạo” và “Thập nhị nhân duyên” để nói với họ:
Diệt khổ: Chúng ta có thể nói với họ rằng trần gian (cõi ta bà) này là bể khổ và không ai tránh được đau khổ. Không ai có thể diệt được hay cất đi đau khổ (sự thật là chúng ta cúng Phật vẫn khổ lại hoài khổ), nhưng chỉ có chấp nhận sự đau khổ đó làm động lực vượt lên trên đau khổ mà thôi. Từ đó chúng ta giới thiệu về một Chúa Giê-su Ki-tô đón nhận sự đau khổ và thánh hóa nó, đồng thời biến đau khổ thành giá trị cứu độ cho cuộc sống mai sau vĩnh hằng.
Bát Chánh đạo: Chúng ta nói với anh chị em Phật tử rằng, Công Giáo cùng dạy những điều như Bát Chánh đạo, qua Bát phúc và lời dạy của thánh Phao-lô trong thư Ga-lát chương 5. Tuy nhiên, tự bản chất con người yếu đuối không thể giữ được trọn vẹn, nhưng cần Ơn Chúa trợ lực và có một cùng đích để hướng tới là Nước Trời, thì mới tuân giữ được trong niềm vui và hạnh phúc.
Thập nhị nhân duyên: Phật tử được dạy muốn đạt đến Niết-bàn thì phải vượt qua Thập Nhị Nhân Duyên, nhưng muốn vượt ra ngoài vòng 12 cái luẩn quẩn đó thì phải tu hàng ngàn kiếp, nên hầu như vô vọng với người sống tại gia. Chúng ta giới thiệu cho họ một con đường đạt tới Nước Trời bằng việc tin vào Chúa Giê-su Ki-tô và sống luật yêu thương, thì ai cũng có thể thực hiện được.
2. KHỔNG GIÁO (HOẶC NHO GIÁO).
– Sáng lập
Đức Khổng Tử (Khoảng 551-479 TCN), ngài không lập ra một tôn giáo, nhưng về sau các đệ tử đã hệ thống hóa lại mọi tư tưởng của ngài dạy và sống mà lập nên. Bản chất là hệ tư tưởng nhưng cũng được xem như một tôn giáo dạy về Nhân đạo, tức là dạy về đạo làm một con người trong gia đình và trong xã hội. Hệ thống của Nho giáo thì theo chủ nghĩa: “Thiên Địa Vạn vật đồng nhất thể”, nghĩa là: Trời Đất và muôn vật đều đồng một thể với nhau. Phương pháp của Nho giáo là phương pháp chứng luận, lấy Thiên lý lưu hành làm căn bản.
– Học thuyết
Gồm 3 điều cốt yếu :Tín ngưỡng: Luôn luôn tin rằng Thiên Nhân tương dữ, nghĩa là: Trời và người tương quan với nhau.Thực hành: Lấy sự thực nghiệm chứng minh làm trọng.Trí thức: Lấy trực giác làm cái khiếu để soi rọi tìm hiểu sự vật.
Tôn chỉ chính của Nho giáo bao gồm 3 điều đó chính là:
– Con người và vạn vật trời đất có tương thông với nhau.
– Mọi việc đều phải lấy thực nghiệm để chứng minh.
– Lấy trực giác và năng khiếu để tìm hiểu vạn vật.
– “Giáo lý”
Đào tạo người quân tử: tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ
* Tu thân: tức là đạt đạo, đạt đức và biết thi-thư-lễ-nhạc.
– Đạt đạo là những quan hệ mà con người phải biết ứng xử trong cuộc sống, mối quan hệ ngũ luận: vua tôi, cha con, chồng vợ, anh em, bạn bè.
– Đạt đức, theo Khổng Tử là Nhân – Trí – Dũng về sau được thêm thành “ngũ thường”: nhân – nghĩa – lễ – trí – tín.
– Biết thi – thư – lễ – nhạc, đòi hỏi vốn văn hóa toàn diện
* Hành động: Tề gia, trị quốc, bình thiên hạ với 2 phương châm nhân trị (cai trị bằng tình người) và chính danh (thực hiện đúng chức phận, nghĩa vụ của mình).
– Kinh điển
Đức Khổng Tử san định lại các kinh sách của Thánh Hiền đời trước như: Kinh Thi, Kinh Thư, Kinh Lễ, Kinh Nhạc, Kinh Dịch. Ngoài ra, còn có bộ Tứ Thư: Đại Học, Trung Dung, Luận Ngữ và Mạnh Tử.
Tóm lại, Khổng Giáo hay Nho Giáo chỉ là một “đạo nhập thể”, không hề mang dáng dấp thần linh để cầu bái xin ơn. Tin có trời thấu suốt để mà sống cho tốt và hợp với thiên mệnh. Ít nhiều xảy ra đây đó có các đền thờ của Khổng Tử hay các vị hiền nhân trong Nho Giáo, chỉ là mang tính nhớ ơn và học tập đạo lý sống mà thôi. Thế nhưng, tại Việt Nam, có ít nhiều sự thờ cúng rải rác đó đây là do pha tạp trong tín ngưỡng thờ trời hoặc những kiểu đa thần truyền khẩu mà không có một hệ thống lễ nghi cụ thể.
* Cách LBTM cho những người theo Khổng giáo.
Có thể nói, LBTM cho những người theo đạo Khổng cũng giống như LBTM cho những người lương dân không theo tôn giáo nào, bởi vì hầu như họ không có quan niệm về đời sau, cũng như không có một tổ chức cơ cấu hay luật lệ gì về tôn giáo mình cả. Tuy nhiên, chúng ta có thể dựa trên quan niệm về “Thiên”, về “Thiên Địa vạn vật đồng nhất thể” (sống gửi thác về), về “Thiên mệnh” và về “Tu thân – của người quân tử” để giới thiệu Chúa cho họ:
Thiên (trời): Giới thiệu về Thiên Chúa sáng tạo, quan phòng và yêu thương…
Đồng nhất thể: Giới thiệu về việc kết hiệp với Chúa Giê-su, mọi người là anh em con cùng một Cha trên trời. Và đời sau (sau khi chết) trở về với Đấng Tạo Thành.
Thiên mệnh: Mọi người đều là con Chúa, đã đánh mất quyền làm con khi phạm tội, nhờ ơn cứu độ của Chúa Ki-tô phục hồi quyền làm con qua Bí tích Rửa tội và sống đạo đúng với thiên mệnh.
Tu thân: Chính là sống đạo làm người và để sống trọn vẹn đạo làm người cần có thần tượng để noi theo (các thần tượng thế gian đều bất toàn, sụp đổ) và cần ơn Chúa trợ giúp.
3. LÃO GIÁO (HAY ĐẠO GIÁO).
– Sáng lập
Nguồn gốc lịch sử của Đạo giáo được xác nhận nằm ở thế kỉ thứ IV trước CN, khi tác phẩm Đạo Đức kinh của Lão Tử xuất hiện. Các tên gọi khác là Lão giáo, Đạo Lão, Đạo Hoàng Lão, hay Đạo gia, Tiên giáo.
– Học thuyết
Đạo: Đạo nghĩa là con đường, đường đi, giáo là sự dạy dỗ, hay gọi là Tiên Đạo, là một tôn giáo của Trung Quốc, được xem là tôn giáo đặc hữu chính thống của đất nước này.
Đức: Đạo trong sự trình bày của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một cách tự nhiên: “Người thuận Đất, Đất thuận Trời, Trời thuận Đạo, Đạo thuận Tự nhiên”. Nó là nguồn gốc của vạn vật. Đức là biểu hiện cụ thể của Đạo trong từng sự vật. Đạo sinh ra vạn vật, nhưng làm cho vật nào hình thành ra vật ấy và tồn tại được trong vũ trụ là do Đức. Nếu Đạo là cái Tĩnh vô hình thì Đức là cái Động hữu hình của Đạo. Nếu Đạo là bản chất của vũ trụ thì Đức là sự cấu tạo và tồn tại của vũ trụ. Sự sinh hóa từ Đạo ra Đức, từ Đức trở về Đạo. Được chi phối bởi luật quân bình âm dương, vạn vật tồn tại theo lẽ tự nhiên một cách rất hợp lý, công bằng, chu đáo, và do vậy mà mầu nhiệm. Bởi vậy mà nó mầu nhiệm tới mức không cần tranh mà chiến thẳng, không cần nói mà ứng nghiệm. Mọi sự bất cập hay thái quá đều trái với lẽ tự nhiên, và do vậy sẽ tự điều chỉnh theo luật âm dương chuyển hóa: “vật hễ bớt thì nó thêm, thêm thì nó bớt”.
Vô vi: Từ đây, Lão Tử suy ra triết lý sống tối ưu là muốn làm việc gì, phải đi từ điểm đối lập, phải vô vi (không làm). Vô vi không có nghĩa là hoàn toàn không làm gì, mà là hòa nhập với tự nhiên, đừng làm gì thái quá. Vì làm thái quá thì theo luật âm dương “vật cực tắc phản”, kết quả thu được còn tệ hại hơn là hoàn toàn không làm gì. Triết lý vô vi áp dụng vào đời sống cá nhân là “chỉ vì không tranh nên thiên hạ không ai tranh nổi với mình”. Khổng thì “nhập thế”, “hữu vi”, còn Lão thì “xuất thế”, “vô vi”.
– Giáo lý
Đạo giáo ban đầu cũng là một đạo tu thân xuất thế, nhưng thế hệ sau Lão Tử đã tôn thần thờ Lão Tử làm giáo chủ, gọi là “Thái Thượng Lão Quân“, coi ngài là hóa thân của “Đạo” giáng sinh xuống cõi trần.
Lão Tử không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng, Địa ngục, mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng thì trở về Đạo, hòa vào Đạo và tu Đạo.
Về tư tưởng, Đạo giáo đã chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích cực đối với thân phận chính mình.
* Vũ trụ quan:
Biểu tượng âm dương nói lên bản chất và mối quan hệ giữa âm và dương. Nguyên thủy của vũ trụ và vạn vật là Đạo.
Đạo là thể vô hình vô tướng, không sinh không diệt, hằng hữu đời đời. Sở dĩ người ta không thấy được Đạo là vì nó là những nguyên tố rời rạc, chưa kết thành hình tượng. Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh ba, ba sinh vạn vật. Một đó là Thái cực, Hai đó là Âm Dương, Ba đó là Tam Thiên Vị (Ba ngôi: Thái cực, Dương và Âm). Âm và Dương thu nhận Sinh từ ngôi Thái cực, rồi vừa xung đột vừa hòa hiệp, để tạo thành trời đất, vũ trụ và vạn vật. Cho nên theo ông, trong vạn vật đều có Âm Dương: Vạn vật đều cõng một Âm và bồng một Dương.
Vì vậy theo Đạo giáo, trước khi vũ trụ thành hình, trong khoảng không gian hư vô bao la, có một chất sinh rất huyền diệu, gọi là Đạo. Đạo biến hóa ra Âm Dương. Âm Dương xô đẩy và hòa hiệp tạo ra vũ trụ và vạn vật. Vạn vật được hóa sinh ra, tác động với nhau, phồn thịnh với nhau, rồi cuối cùng tan rã để trở về trạng thái không vật không hình, tức là trở về nguồn gốc của nó là Đạo.
* Nhân sinh quan:
Đức Lão Tử quan niệm rằng: Đạo Trời không thân ai, không sợ ai. Trời Đất sinh ra muôn vật, cây cỏ, chim muông, nhân loại, không phải cốt để chúng ăn thịt nhau mà các sinh vật đều khắc chế lẫn nhau, nuôi dưỡng nhau, bổ trợ nhau để cùng tồn tại.
Đức Lão Tử không lấy cuộc đời làm lạc thú, xem việc sống như một nghĩa vụ, không yếm thế, không lạc quan, và xem cái chết là một việc phục tùng theo lẽ tự nhiên nhất định. Lão Tử ghét những người ham mê danh lợi, quá coi trọng cái xác thịt của mình. Cái xác thịt giả tạm này là một cái không đáng quý, vì nó thường là mối lo cho người ta; đáng quý nhất là khi người ta biết đem thân ra phụng sự thiên hạ. Đức Lão Tử khuyên người đời không nên quá tôn trọng và thiên về đời sống vật chất, phải tiết chế lòng ham muốn, nên chú trọng tinh thần, lấy cái tâm đè nén cái khí, thà bỏ cái thân này mà giữ được Đạo và Đức.
– Phái
Các thế hệ đời sau đã chẳng còn chân truyền của giáo chủ. Có thể chia ra 3 phái chính:
* Đạo học chủ trương tu tánh thiên về vấn đề đắc đạo thành Tiên, quay về với nội tâm tìm sự thanh tĩnh để đạt Đạo. Đại diện cho trường phái này là thủy tổ Lão Tử, Trang Tử, Liệt Tử (khoảng thế kỷ thứ 4 trước CN).
* Tiên học (còn gọi là Đơn Đạo) khác với Đạo học, là phương pháp tiệm tu, đi từ thấp đến cao, từ thô tới tinh, từ hữu vi đến vô vi; có mục tiêu tu hành phản lão hoàn đồng, trường sinh bất lão tức là chủ trương tu tạo nên một xác thân tráng kiện, dần dần tiến đến thân tâm an lạc và cuối cùng mở được tuệ giác và chung cuộc vẫn đi đến chỗ Thiên Nhân hiệp nhất, huyền đồng cùng Trời Đất. Phái Tiên Học cũng thờ Lão Tử và các vị tổ. Đạo giáo thần tiên hướng tới việc tu luyện thành thần tiên trường sinh bất tử [3].
* Đạo giáo nhân gian hay Đạo giáo phù thủy: dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ… để thu hút tín đồ. Đạo giáo phù thủy dùng các pháp thuật trừ tà trị bệnh, phong thủy…
Về sau phát sinh nhiều tông phái ở Trung Quốc và nhiều phương pháp tu luyện hoặc biến chứng phù thuật.
* Đạo giáo tại Việt Nam
Đạo giáo thâm nhập vào Việt Nam từ khoảng cuối thế kỷ thứ 2. Đạo giáo có hai phái tu là nội tu và ngoại dưỡng, phái nội tu phổ biến ở Việt Nam hơn. Ngày nay, Đạo giáo Việt Nam với tư cách là một tôn giáo không còn tồn tại nữa, tuy nhiên những ảnh hưởng của nó đến tư duy và đời sống xã hội của người Việt thì vẫn còn. Thuật phong thủy, các phương pháp dưỡng sinh, các môn võ thuật, các hình thức bói toán, cúng bái, trừ tà của Đạo giáo vẫn phổ biến tại Việt Nam. Tại Hà Nội vẫn còn một số đạo quán của Đạo giáo như Thăng Long tứ quán bao gồm Trấn Vũ quán, nay gọi là đền Quán Thánh ở phố Quán Thánh; Huyền Thiên quán, nay là chùa Huyền Thiên ở phố Hàng Khoai; Đồng Thiên quán, nay là chùa Kim Cổ ở phố Đường Thành; Đế Thích quán, nay là chùa Vua ở phố Thịnh Yên.
Đạo giáo đi vào Việt Nam, đặc biệt là Đạo giáo phù thủy, tìm thấy ngay rất nhiều điểm tương đồng với tín ngưỡng ma thuật của người Việt nên Đạo giáo ăn sâu vào người Việt rất dễ dàng. Trước đó người Việt đã từng sùng bái ma thuật, phù phép. Họ tin rằng những lá bùa, những câu thần chú có thể chữa được bệnh tật và trị được tà ma.
Từ Trung Quốc vào Việt Nam, Đạo giáo cũng vẫn giữ hai phái là Đạo giáo nhân gian thờ Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế, Thái Thượng Lão Quân, thần Trấn Vũ (Huyền Vũ), Quan Thánh Đế Quân. Bên cạnh đó, có sự kết hợp với tín ngưỡng dân gian, Đạo giáo còn thờ nhiều vị thần thánh khác của người Việt như Đức thánh Trần, Thánh mẫu Liễu Hạnh, cùng với Tam Phủ, Tứ Phủ, cho thấy sự hòa quyện giữa Đạo giáo và tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt. Ngoài ra, các pháp sư Việt Nam từ Bắc chí Nam còn thường hay thờ các thần Ngũ Hổ bằng bức tranh con hổ hay Quan Lớn Tuần Tranh là hai con rắn Thanh Xà và Bạch Xà quấn trên xà nhà trước bàn thờ. Đặc biệt, Đạo giáo đã đem sang Việt Nam phương pháp cầu Tiên.
Đặc biệt, Đạo giáo khi vào Việt Nam, hòa quyện với văn hóa tín ngưỡng dân gian đã hình thành một khuynh hướng của những người thật sự không phải là tín đồ đạo Lão nhưng có tư tưởng gần với phái Tiên Đạo hay Đạo giáo Thần Tiên, tức ưa thích đời sống thanh tĩnh nhàn lạc. Đó là những bậc trí thức Nho giáo, sinh không gặp thời, gặp chuyện bất bình nơi chốn quan trường hay các bậc anh hùng đã làm xong phận sự nam nhi đến lúc công thành thân thối lui về ẩn dật, vui thú điền viên cùng với thiên nhiên thi phú.
* Cách Loan Báo Tin Mừng cho những người theo Đạo giáo.
Như đã nói, Lão Tử không bàn đến Thượng đế, Linh hồn, Thiên đàng, Địa ngục, mà chỉ nói một cách tổng quát về nguồn gốc của con người và vạn vật là từ Đạo mà ra, và cuối cùng thì trở về Đạo, hòa vào Đạo và tu Đạo. Đạo giáo chủ trương bất tử, tức là quan niệm lúc chết, sự sống con người được thay đổi chứ không bị mất đi, cho nên con người có một thái độ tích cực đối với thân phận chính mình. Đạo giáo ban đầu chủ trương việc tu tiên, rồi sau đó có luyện đan, còn những gì mang tính phù thủy chỉ là sự biến tướng phát sinh về sau này.
Tại Việt Nam hiện nay, những gì thuộc tu tiên hay luyện đan hầu như không còn, nhưng dùng kinh kệ, bùa chú, phương thuật, tế lễ, pháp thuật trừ tà trị bệnh, phong thủy… thì phát triển và lan tràn. Vì thế, có thể nói, LBTM cho người theo đạo Lão là rất khó khăn.
Chúng ta có thể dựa trên niềm tin bất tử trở về với đạo, để loan báo Đạo là gì trong niềm tin Ki-tô giáo và cho họ hiểu sự sống mai sau là Nước Trời. Đồng thời, cho họ thấy những thứ bùa chú, ma thuật, trừ tà, bói toán chỉ là sự lường gạt và do ma quỷ dối trá đày đọa con người (bởi sau một chút có thể là thành công giả tạo ấy, lại kéo theo nhấn chìm con người càng lún sâu trầm luân trong muôn điều bất hạnh khác), từ đó, giới thiệu cho họ, chỉ trong Thiên Chúa mới giải thoát họ khỏi chìm đắm trong nô lệ những thứ ấy, mà đạt tới sự tự do và bình an đích thực.
4. PHẬT GIÁO HÒA HẢO
– Sáng lập
Phật giáo Hòa Hảo ra đời tại làng Hòa Hảo, quận Tân Châu, tỉnh Châu Đốc vào năm 1939 do đức Huỳnh Phú Sổ sáng lập.
Đức Huỳnh Phú Sổ, còn được gọi là “Đức Huỳnh Giáo chủ”, khi đó chưa đầy 18 tuổi, tuyên bố mình là bậc “Sinh nhi tri”, biết được quá khứ nhìn thấu tương lai, được thọ mệnh cùng với Phật A-di-đà và Phật Thích-ca Mâu-ni, xuống hạ giới có nhiệm vụ truyền bá cho dân chúng tư tưởng Bửu Sơn Kỳ Hương để Chấn hưng Phật giáo, cứu độ chúng sinh khỏi sông mê, biển khổ và “đưa nhân loại đi vào vòng hạnh phúc”.
Ông chữa bệnh cho người dân bằng các bài thuốc nam do ông kê toa, đồng thời qua đó ông truyền dạy giáo lý bằng những bài sám giảng (còn gọi là sấm giảng) do ông soạn thảo. Vì vậy chỉ trong vòng 2 năm từ 1937 đến 1939 số người tin theo ông đã khá đông và ông trở nên nổi tiếng khắp vùng.
Ngày 18 tháng 5 năm Kỷ Mão (tức 5 tháng 7 năm 1939), Huỳnh Phú Sổ bắt đầu khai đạo, khi ông chưa tròn 20 tuổi. Nơi tổ chức lễ khai đạo chính là gia đình ông. Ông đã lấy tên ngôi làng Hòa Hảo nơi mình sinh ra để đặt tên cho tôn giáo mới của mình: Phật giáo Hòa Hảo.
– Giáo lý
Gồm có hai phần đó là Học Phật và Tu nhân.
* Phần học Phật:Phật giáo Hòa Hảo dựa vào giáo lý của Phật giáo nhưng khi giải thích lại tập trung vào ba pháp môn chính là Ác pháp, Chân pháp và Thiện Pháp, trong đó:
– Ác pháp: là các pháp làm trở ngại cho thiện pháp, làm cho con người ô nhiễm thân tâm, gây nên tội lỗi và vướng mãi trong vòng luân hồi sinh tử, thuộc về các pháp có các lý thuyết như:
+ Tam nghiệp là thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp tạo ra mười điều các là: sát sinh, trộm cắp, tà dâm, nói dối, nói dối hai mặt, nói điều ác, nói khoác lác, tham lam, giận giữ, si mê.
+ Thất tình: là bảy trạng thái tình cảm: buồn, yêu, ghét, vui, giận, sướng, muốn.
+ Lục dục là sáu điều ham muốn:danh, tài, sắc, hư, tật
+ Ngũ uẩn là năm thứ mê hoặc tham, sân, si, nhân, ngã mà trở nên đần độn, ngu si, tối tăm cản trở con người đến chỗ siêu thoát (nguyên gốc Ngũ uẩn là lý thuyết rất quan trọng của đạo Phật khi nói về 5 yếu tố là: sắc, thụ, tưởng, hành, thức tạo nên con người)
+ Tứ đổ tường là bốn bức tường làm cho con người sa ngã, tăm tối, tội lỗi là: cờ bạc, rượu chè, trai gái, danh vọng.
– Chân pháp: là các pháp phá tan những mê hoặc tối tăm để bừng sáng về trí tuệ tiến tới giác ngộ chân lý. Thuộc về Chân pháp có các thuyết như:
+ Tứ diệu đến gồm có 04 chân lý, trong đó: tập đế là khi mới vào tu; diệt đế là phải diệt trừ các ác pháp; khổ đế là nhẫn nại, nhịn khổ trong tu tập; đạo đế là đạt đến bậc giác ngộ – thành đạo ( nguyên gốc tứ diệu đế là bốn chân lý cao siêu của Phật khi nói về sự khổ của con người).
+ Thập nhị nhân duyên là 12 nhân duyên chằng chịt tạo ra chuỗi dây nhân quả của vòng luân hồi sinh tử mà con người vướng vào không thoát ra được.
+ Ngũ trược là năm thứ nhơ bẩn làm ô nhiễm nhân tâm nên mải say đắm trong cõi trần ai tục lụy
– Thiện pháp: là các pháp lành mà con người cần tu tập để gây thiện duyên, sửa trị thân tâm cho thanh sạch để chứng các quả vị Phật. Thuộc về Thiện pháp có các thuyết như:
+ Bát chính đạo: là 08 con đường tu hành chân chính, nếu ai theo sẽ diệt trừ được các ác pháp do thân, khẩu, ý tạo ra, cụ thể: chính kiến, chính nghiệp, chính mạng sẽ diệt trừ ác pháp về thân; chính ngữ diệt trừ ác pháp về khẩu và chính tư duy, chính tinh tiến, chính định, chính niệm sẽ diệt trừ ác pháp về ý.
+ Bát nhẫn là 08 điều nhẫn nhịn để vượt qua những thử thách trong xử thế và tu tập, trong đó: nhẫn năng xử thế là giữ cách xử xự với đời; nhẫn giới là giữ nghiêm giới luật; nhẫn hương lân là giữ hòa khí đối với cộng đồng, làng xóm; nhẫn phụ mẫu là giữ đức kính trọng, hiếu thảo với cha mẹ; nhẫn tâm là giữ lòng an định; nhẫn tính là giữ cho tính tình điềm đạm; nhẫn đức là giữ cho đức độ, hòa nhã và nhẫn thành là giữ thành tâm, thành tín.
* Phần tu nhân: giáo thuyết Phật giáo Hòa Hảo nhấn mạnh việc tu học theo Tứ ân tức là bốn điều ân nghĩa: Ân tổ tiên cha mẹ, Ân đất nước, Ân đồng bào, Ân tam bảo:
– Ân tổ tiên cha mẹ: Mỗi con người sinh ra được nuôi dưỡng trưởng thành là nhờ công lao cha mẹ, nhưng công sinh thành ra cha mẹ là ông bà tổ tiên. Do đó phải sống có hiếu với cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên. Muốn đền ơn cha mẹ phải nghe lời răn dạy, không làm điều xấu để phiền lòng cha mẹ; phải chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ nhất là lúc cha, mẹ ốm đau, già yếu. Muốn đền ơn ông bà tổ tiên, không được làm tổn hại đến truyền thống tốt đẹp của gia đình, dòng họ. Nếu tổ tiên có làm gì sai lầm gieo rắc đau thương cho con cháu thì phải quyết chí tu cầu để rửa nhục.
– Ân đất nước: Mỗi người phải ân nghĩa với đất nước, quê hương vì đó là nơi nuôi ta sống và ông và tổ tiên ta thường sống, đó là nơi cho ta thuần phong mỹ tục, nâng tâm hồn ta lên và nâng bước ta đi. Mỗi con người phải yêu đất nước, yêu quê hương; tùy theo tài lực của mình mà làm cho quê hương giàu mạnh.
– Ân đồng bào, nhân loại: mỗi con người phải sống ân nghĩa với đồng bào của mình, những người sống trong cùng đất nước, cùng màu da, tiếng nói, cùng đất nước, cùng tổ tiên. Phải sống ân nghĩa với những người xung quanh đã từng chia sẻ với nhau niềm vui, nỗi buồn, từng giúp đỡ nhờ cậy trong lúc khó khăn, hoạn nạn.
– Ân tam bảo: Tam bảo là Phật, Pháp, Tăng. Ân Tam bảo là ghi nhớ công ơn Phật, Pháp, Tăng đã khai mở trí tuệ cứu vớt chúng sinh khỏi vòng trầm luân khổ ải. Bổn phận của mỗi con người phải noi theo tiền nhân tôn kính Tam bảo, tu rèn thân tâm để tiến trên con đường giải thoát.
– Lễ nghi
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo là những cư sĩ tại gia nên việc thờ phượng và hành đạo rất đơn giản, chủ yếu được tiến hành tại gia đình. Phật giáo Hòa Hảo chỉ thờ Phật, thờ các vị anh hùng dân tộc.
Phật giáo Hòa Hảo thờ Phật nhưng không bằng tượng cốt, tranh ảnh mà thờ tấm vải Trần Dà (là tấm vải màu nâu) thay cho tấm vải Trần Điều (là tấm vải màu đỏ) của Phật giáo Bửu Sơn Kỳ Hương với cùng một quan niệm Phật tức tâm, tâm tức Phật. Màu dà để biểu hiện cho sự thoát tục của mình và màu ấy là màu kết hợp của tất cả các màu sắc khác nên có thể tượng trưng cho sự hòa hiệp của nhân loại, không phân biệt chủng tộc và cá nhân.
Ở mỗi gia đình của Phật giáo Hòa Hảo có 3 bàn thờ: Bàn thờ Phật cao nhất chỉ treo tấm Trần Dà; bàn thờ tổ tiên đặt dưới bàn thờ Phật; bàn thờ thông thiên thờ ngoài trời, ở trước cửa nhà. Sau này tín đồ Phật giáo Hòa Hảo còn thờ ảnh của ông Huỳnh Phú Sổ, thường được đặt dưới tấm Trần Dà.
Lễ phẩm cúng Phật hay cúng trời đất ở bàn thông thiên chỉ có hương, hoa và nước lạnh. Nước lạnh thể hiện sự trong sạch, hoa thể hiện sự tinh khiết, hương thơm xua đuổi tà khí. Ông Huỳnh Phú Sổ khuyên tín đồ không nên làm giỗ linh đình và tốn kém, bởi thánh thần và người chết không ăn được. Phật giáo Hòa Hảo tuyệt đối không dùng vàng mã khi cúng giỗ, vì cho rằng đó chỉ là những thứ giả tạo, không cần thiết.
Phật giáo Hòa Hảo không dùng kinh kệ của Phật giáo mà chỉ đọc sấm giảng của ông Huỳnh Phú Sổ và miện Lục tự Di Đà (sáu chữ Nam mô A Di Đà Phật) để tĩnh tâm.
– Luật lệ
Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thực hiện tám điều răn của đức Huỳnh Giáo Chủ soạn:
Một là không được uống rượu, hút thuốc phiện, chơi bời đàng điếm, phải giữ trọng luân lý tam cương, ngũ thường.
Hai là không được lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng lo làm ăn và lo tu luân chân chất; không được gây gổ lẫn nhau và luôn tha thứ cho nhau khi nóng giận.
Ba là không được ăn sài, trưng diện thái quá và lợi dụng tiền tài mà quên nhân nghĩa đạo lý, đừng sống ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu, phụ người nghèo khó.
Bốn là không được kêu trời, phật, thần thánh mà sai, hoặc nguyền rủa thần thánh không can dự đến ta.
Năm là không ăn thịt trâu bò, chó và sát hại sinh vật mà cúng thần thánh vì thấn thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu can tội sẽ chịu tội; còn những hạng ăn đồ cúng mà hết bệnh là tà thần, nếu cúng kiếng mãi thì chúng quên ăn sẽ nhiễu hại ta.
Sáu là không đốt giấy tiền bạc, vàng mã, quần áo mà tốn tiền vô lý vì cõi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không sai được nữa, phải để tiền lãng phí ấy cứu trợ cho những người đói rách, tàn tật.
Bảy là đứng trước mọi việc về sự đời và đạo đức phải suy xét cho minh lý rồi sẽ phán đoán sự việc ấy.
Tám là phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào đường đạo đức. Nếu ai giữ được trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phương an dưỡng mà học đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sinh.
Ngoài ra, Phật giáo Hòa hảo còn răn dạy tín đồ tôn trọng những người khác tín ngưỡng, nhất là không cậy đông người mà ức hiếp hoặc nói xấu, bài xích; không nên gây oán thù mà phải làm lành với họ. Đối với nhân sinh nói chung thì phải giữ mối quan hệ hòa hợp, gây thiện cảm lẫn nhau; đồng thời phải biết thương xót, giúp đỡ mọi người nhất là những lúc khó khăn, hoạn nạn. Phật giáo Hòa Hảo khuyến khích ăn chay trường, nhưng nếu không có điều kiện thì hàng tháng ăn chay bốn lần vào các ngày 14, 15, 29, 30 hoặc ngày mùng một nếu là tháng thiếu. Những ngày ăn mặn phải kiêng ăn thịt các con vật như trâu, bò, chó vì chúng có ích và sống gắn bó với con người.
Hôn nhân và tang ma Phật giáo Hòa Hảo đơn giản và tiết kiệm, khuyên cha mẹ không ép buộc tình duyên con cái nhưng phải có bổn phận hướng dẫn, khuyên bảo chúng; không nên để con quá tự do mà thiếu kinh nghiệm làm cho chúng hư hỏng; khuyên không thách cưới bằng lễ vật hay tiền; khuyên mọi người không khóc lóc trong tang lễ vì làm vậy sẽ cản trở sự siêu thoát anh linh của người chết.
Ngoài những vấn đề nêu trên, Phật giáo Hòa Hảo còn đề cập đến nhiều vấn đề khác của đời sống xã hội với thái độ tích cực như cấm tuyệt đối việc chơi cờ bạc, hút thuốc phiện và mê tín dị đoan; Phật giáo Hòa Hảo còn khuyên mọi người siêng năng học hành để mở rộng kiến thức và giúp cho việc tu học. Phật giáo Hòa Hảo khuyên tín đồ rèn luyện thân thể, giữ vệ sinh vì thần thánh chỉ gần những kẻ trong sạch, nên nếu ai muốn được tiếp độ thì phải trong sạch cả tinh thần lẫn vật chất. Tín đồ Phật giáo Hòa Hảo thường mặc áo bà ba, áo dài màu đen hoặc màu dà (màu vàng).
– Cơ cấu tổ chức
Theo truyền thống, Phật giáo Hòa Hảo có 2 đối tượng tu hành đó là tu tại gia và tu xuất gia. Những người tu xuất gia hình thành hàng giáo phẩm trong đạo. Đối với người tu tại gia thì không có hàng giáo phẩm.
Trước đây Phật giáo Hòa Hảo có quy định về nghi thức nhập đạo và ra đạo khá chặt chẽ, có phần gần giống như tổ chức chính trị. Người muốn nhập đạo cần có một số điều kiện như: Phải tự nguyện, có tuổi từ 18 trở lên, viết đơn xin gia nhập đạo, phải có 2 bổn đạo cũ giới thiệu và bảo lãnh, phải báo cho gia đình biết. Người vào đạo phải nguyện trước bàn thờ tổ tiên và tuyên thệ trước Tam bảo giữ gìn một đời một đạo cho đến ngày chung thân. Sau khi nhập đạo, mỗi người được nhận thẻ tín đồ, được tham gia sinh hoạt đạo và đóng nguyệt liễm.
* Cách Loan Báo Tin Mừng cho những người theo Phật giáo Hòa hảo.
Cùng một cách thức nói chuyện với PGHH như với anh em theo Phật Giáo. Tuy nhiên, nên dựa vào “tứ ân” và “tám điều răn của Đức Huỳnh Giáo Chủ” để chuyển tải sứ điệp Tin Mừng sẽ dễ tiếp cận và được lắng nghe hơn.
Qua Tứ ân, chúng ta nói đến ân huệ lớn nhất là được làm con Thiên Chúa và trở nên nghĩa tử trong Đức Ki-tô nhờ được Chúa Giê-su cứu chuộc. Và khi thấu hiểu được điều này, chúng ta sẽ biết hiếu kính tổ tiên cha mẹ (ân tổ tiên), xây dựng cuộc sống (ân đất nước), yêu mến mọi người như con cùng một cha trên trời (ân đồng bào nhân loại) và ghi ơn những người dạy dỗ hướng dẫn chúng ta (ân “tam bảo”).
Dựa trên “tám điều răn” của PGHH, chúng ta giới thiệu về mười điều răn trong đạo Công Giáo, và nói với họ rằng, để giữ được những giới răn thì phải có sự thành tâm kính mến Đấng Tạo Thành và yêu thương đồng loại. Cần có ơn trên trợ giúp cùng với nỗ lực của chính mình thì mới có thể giữ được những giới răn, và cuối cùng đạt đến sự viên mãn là Nước Trời.
5. ĐẠO CAO ĐÀI
– Sáng lập
Đức Ngô Minh Chiêu là vị môn đồ đầu tiên của Đức Thượng Đế (hay Đức Chí Tôn), ngài thụ lãnh sứ mạng gieo truyền nền đạo mới tại thế gian. Cuối năm 1925 (Ất Sửu) ngài gia tâm gieo truyền mối đạo mới.
Ngày 22 tháng Giêng năm 1926, Đức Chí Tôn dạy việc khai mở đạo. Ngô Văn Chiêu là Anh Cả. Lần đó tập trung được 12 vị.
Tại đàn cơ nơi nhà ngài Lê Văn Trung, đúng vào giờ Tý ngày mùng 1 tháng Giêng năm Bính Dần (theo dương lịch là 13.2.1926) là Khai cơ Phổ độ của Cao Đài Giáo.
Ngày Rằm tháng 10 năm Bính Dần (tức 19.11.1926) nhằm ngày Hạ nguyên, ngài Lê Văn Trung hiệp với ngài Phạm Công Tắc cùng quí vị chức sắc Thiên phong của Đạo, vâng lệnh Đức Chí Tôn mượn chùa Thiền Lâm ở Gò Kén Tây Ninh làm thánh thất tạm để tổ chức Đại lễ Khai đạo Cao Đài. [4]
Tới năm 1931, khởi công xây dựng Tòa thánh Tây Ninh tại xã Long Thành Bắc, huyện Hòa Thành, tỉnh Tây Ninh. Nguyên Thiền Lâm tự ở Gò Kén Tây Ninh là nơi đặt thánh thất tạm. 18 năm sau, vào Giêng năm Ất Mùi (1955), mới hoàn thành và làm Đại lễ Khánh thành.
– Ý nghĩa:ĐẠI ĐẠO TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Cao Đài là Đấng Chí Tôn ở trên nơi tháp cao nhất. Cao Đài là do chính Đức Thượng đế, Đấng Chí tôn, đích thân sáng lập và làm giáo chủ. Giáo lý vi diệu của đạo Cao Đài là do chính Đức Thượng đế trực tiếp truyền dạy qua sự thường xuyên tiếp xúc bằng đàn cơ giữa Ngài và quí vị chức sắc thượng phẩm trong Đạo.
Đại là vĩ đại, lớn rộng; Đạo là con đường. Cao Đài Đại đạo là con đường tốt đẹp và rộng rãi, dẫn dắt con người học hỏi, lập công quả và tu tập, nhằm mục đích đi thẳng tới chân lý – một chân lý hằng hữu và bất biến – đó là Thượng đế. Bằng quá trình tu luyện theo đạo Cao Đài, tín đồ tuần tự đạt tới năm nấc thang tiến hóa, qua các phẩm vị Thần, Thánh, Tiên, Phật, để cuối cùng, đạt đến sự hiệp nhất vào Đấng Cao Đài, tức là Ngọc hoàng Thượng Đế, Đấng Chí tôn.
Phổ nghĩa là phổ quát, rộng lớn, phô bày ra cho hết thảy mọi người ở khắp mọi nơi. Độ nghĩa là cứu độ, cứu giúp. Do đó, Cao Đài Đại Đạo muốn phổ độ chúng sinh thì phải mở ra mối Đạo lớn cho người đời tu hành.
Cao Đài Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ có nghĩa là cứu độ, cứu giúp chúng sinh trong thời kỳ hiện nay, tức là thời kỳ cuối trong ba nguyên (còn phát âm là ngươn) của loài người:
Thượng nguyên hay là Nguyên Thượng đức, cũng là Nguyên Tạo hóa. Trong nguyên này, Đấng Chí tôn gầy dựng Càn khôn Vũ trụ. Thời thái cổ, loài người tính tình hồn nhiên, mộc mạc lương thiện, sống theo đạo trời mà hòa hợp thân thiết yêu thương nhau. Con người hấp thụ khí thiên nhiên nên tâm hồn thanh thoát, thể xác an nhàn, vui say mùi đạo, tiếp nhân xử thế cực kỳ đạo đức.
Trung nguyên hay là Nguyên Thượng lực, cũng là Nguyên Tranh đấu. Trong nguyên này loài người thâm nhiễm nhiều thói hư tật xấu, lòng người bất nhất, nên càng ngày càng xa khuất điểm thiên lương, sống bức hiếp lẫn nhau, sinh ra chiến tranh, chèn ép và bóc lột nhau. Người đời không còn kể gì tới tình đồng loại đồng chủng đồng bào mà chỉ một lòng một dạ trông cậy vào sức lực để tranh đấu với nhau.
Hạ nguyên hay Đời Mạt kiếp, là Nguyên Điêu tàn, cũng là Nguyên Tái tạo. Trong nguyên này, cuộc đấu tranh giữa người đời chuyển qua mãnh liệt, tàn khốc, hiểm độc phi thường. Càng tranh đấu càng tiến hóa, càng ác liệt, đưa tới điêu tàn hủy diệt. Nhưng đặc biệt là hễ loạn thì phải tới trị, vong thì tất phải hưng, nên nguyên tiêu diệt này tất nhiên sẽ chuyển thành nguyên bảo tồn; lúc ấy đạo đức được phục hưng, để sắp sửa tái tạo trở lại như thời thái cổ.
Đối chiếu với tam nguyên kể trên, kể từ khi có loài người đến nay, Đấng Thượng đế đã mở ra ba thời kỳ phổ độ chúng sinh:
Nhất kỳ Phổ độ: vào thời thái cổ của loài người, các tôn giáo như Đạo Phật với Đức Nhiên Đăng Cổ Phật; Đạo Tiên với Đức Thái Thượng Đạo tổ; Đạo Bà-La-Môn; Đạo Do Thái với Mô-se; Đạo Nho với Phục Hy, v.v. Phổ độ Nhất kỳ này do Đức Nhiên Đăng Cổ Phật chủ trì Liên Trì Hội.
Nhị Kỳ Phổ độ: vào thời thượng cổ của loài người, có các tôn giáo như Phật Giáo với Đức Phật Thích Ca; Lão Giáo với Đức Lão Tử; Nho Giáo với Đức Khổng Tử; Thiên Chúa Giáo với Đức Giê-su Kitô, v.v. Phổ độ Nhị kỳ này do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni chủ trì Linh Sơn Hội.
Tam kỳ Phổ độ: vào thời kỳ hiện nay có Đại Đạo Tam kỳ Phổ độ, một tôn giáo đặc biệt vì lần này do Đấng Thượng đế đích thân khai đạo, làm giáo chủ và trực tiếp dạy bảo để cứu vớt hết thảy loài người trên trái đất này trước khi xảy ra cuộc Tận thế chuyển lập đời Thánh đức. Phổ độ Tam kỳ này do Đức Phật Di Lạc Vương chủ trì Long Hoa Hội.
– Giáo lý:TAM GIÁO NGŨ CHI.
Với sự chỉ dạy trực tiếp của Đấng Chí Tôn, đạo Cao Đài đặt căn bản giáo lý của tôn giáo mình trên nguồn cội của giáo lý và triết lý của các tôn giáo lớn.
Tam giáo: Nho, Phật và Lão, gọi là Tam giáo Đồng nguyên (ba tôn giáo có chung một gốc).
Ngũ Chi: Nhân đạo (Khổng Giáo); Thần đạo (Khương Thái Công, thờ phụng chư thần); Thánh đạo (Thiên Chúa giáo); Tiên đạo (Lão giáo); và Phật đạo (Phật giáo).
* Vũ trụ quan
Vũ trụ hiện hữu của chúng ta có sinh có tử rồi tái sinh trở lại. Vũ trụ có khởi đầu và mức khởi đầu đó chính là Đức Ngọc hoàng Thượng đế, tức là Thái cực. Khí Hư vô sinh ra Ngọc hoàng Thượng đế và chính Đấng Ngọc hoàng Thượng đế ấy tạo hóa ra Càn khôn Vũ trụ cùng vạn vật hiện hữu. Trong tầng trời Hư vô thiên, có Ngọc Hư cung, là nơi họp triều đình của Đức Chí tôn để điều hành hết thảy sinh hoạt của Càn khôn Vũ trụ. Quí vị Thần Thánh Tiên Phật họp Đại hội tại Ngọc Hư Cung để lập Thiên điều cai quản Càn khôn Vũ trụ.
* Nhân sinh quan
Con người sống trong Vũ trụ ấy là một tiểu Thượng đế, được Đức Ngọc hoàng Thượng đế cho xuống trần để nương theo xác phàm mà học hỏi.
Con người sống dưới trần gian có ba thể: Thể xác (hữu hình); Linh hồn (vô hình); Chơn thần (bán hữu hình) làm trung gian cho Thể xác và Linh hồn.
Con người sống trên cõi thiêng liêng (vô hình) thì chỉ có hai thể: Linh hồn; và Chân (chơn) thần (xác thân thiêng liêng).
Khi chết, Thể xác con người hư nát, trở về với đất, còn Linh hồn và Chân thần thì sẽ bay lên cõi thiêng liêng, ở đó, trình diện với hai Đấng Phụ Mẫu là Đức Chí Tôn và Phật Mẫu. Căn cứ vào phúc đức và tội tình đã gây ra nơi cõi thế, Linh hồn và Chân thần sẽ được Đức Chí Tôn xét khen thưởng hay bắt đi đầu thai kiếp khác để trở lại trần gian sống mà trả dần nghiệp quả.
Chừng nào Linh hồn và Chân thần thực hiện được những việc hoàn toàn tốt đẹp (viên mãn) nơi cõi trần, xứng đáng là một tiểu Thượng đế thì khi trở về cõi Thiêng liêng, Đức Chí Tôn sẽ khen thưởng xứng đáng và được hội hiệp cùng Đức Chí Tôn.
Như thế, con người có một đời sống kéo dài tới vô tận: Sống đời sống trên cõi thiêng liêng kia để an hưởng và suy nghiệm; và sống đời sống dưới cõi trần này để học hỏi, lập công quả, tu luyện để được tiến hóa một cách nhanh chóng.
– Hành đạo
Đạo Cao Đài là một tổng hợp đặt căn bản trên “Tam giáo Đồng nguyên, Ngũ chi Phục nhất”, đặc biệt phối hợp với Thánh giáo bao gồm những thông điệp được linh truyền trực tiếp qua cơ bút, phần lớn là những bài văn thơ (lục bát, thất ngôn tứ tuyệt, thất ngôn bát cú, song thất lục bát, v.v.) bao hàm ý nghĩa sâu xa và vi diệu.
Về mặt thực hành, đạo Cao Đài rút tỉa ít hoặc nhiều trong số những qui định tu tập, tiếp nhân xử thế của Phật giáo (như Giới luật Ăn chay, Ngũ giới cấm, Thiền định); của Lão giáo (như luyện Tam bảo: Tinh, Khí, Thần); của Nho Giáo (như Tam cương, Ngũ thường, Tam tòng, Tứ đức); của Công giáo (như tôn thờ Thượng đế, phẩm trật chức sắc và hệ thống tổ chức giáo hội các cấp.)
* Để làm cho phù hợp với mọi trình độ dân trí và mức độ tin tưởng, giáo lý của đạo Cao Đài tổng kết những chánh niệm của các tôn giáo, làm thành Năm nguyên tắc chung:
Về luân lý: Mọi người phải giữ đúng bổn phận đối với bản thân, với gia đình, với xã hội như một hình thức nới rộng của gia đình, và sau cùng, đối với toàn thể loài người như một đại gia đình của con người.
Về triết lý: Con người nên từ bỏ danh vọng, tiền tài và không nên sống xa hoa. Tóm lại, con người nên tự mình vượt thoát khỏi những ham muốn vật chất để tìm kiếm sự thanh thản tâm hồn và thanh khiết linh hồn.
Về thờ phụng: Con người phải tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn, người cha hiền của tất cả, đồng thời phải thờ kính Thần, Thánh, Tiên, Phật vì chư vị ấy họp thành một hệ thống thiêng liêng mầu nhiệm. Con người có thể thờ cúng tổ tiên, nhưng không được cúng mặn và không được dùng vàng mã.
Về tâm linh: Đạo Cao Đài xác nhận sự tin tưởng vào tính cách tồn tại vĩnh viễn của linh hồn con người. Linh hồn ấy có thể biến chuyển và chịu sự luân hồi tùy vào nghiệp quả các hành động của mình lúc sinh thời, cho tới khi toàn hảo và nhập làm một vào Đấng Chí tôn.
Về thông linh: Con người phải tu tập, đạt tới sự tịnh tâm để khám phá chân lý, làm sáng tỏ và củng cố Chân thần cùng thông linh với nguyên khí của vũ trụ, cũng là của Đức Ngọc hoàng Thượng đế.
– Nghi lễ
So với các tôn giáo khác, nghi lễ và cách thức thờ phụng của đạo Cao Đài thuộc loại giản dị nhất, tuy thế, vẫn đạt tới mức thành tâm và trang trọng nhất. Tín đồ chỉ cần hằng ngày cầu nguyện ở trong riêng của mình nhà mình (tư gia) hay ở thánh thất của cộng đoàn.
Theo nguyên tắc, tín đồ không được xây bàn, cầu cơ và cầu đồng, để tránh sự lợi dụng thần quyền của những kẻ dựa vào cơ bút, đồng bóng. Không có phép xưng tội như bên Đạo Chúa. Số lượng chức sắc chỉ vừa đủ để giảng đạo, để khuyên nhủ tín đồ sống đúng với luật Đạo được qui định cụ thể trong giáo lý.
Hình ảnh thờ phụng tượng trưng cho Ngọc hoàng Thượng đế Đấng Chí tôn là Thiên Nhãn. Tại thánh thất, việc thiết lập bàn thờ thì tùy vào khung cảnh của thánh thất và của chi phái mình, nhưng trên cao, ở nơi trang trọng nhất, vẫn phải là hình Thiên Nhãn. Tại tư gia, bàn thờ cũng bày biện tùy theo chi phái và hoàn cảnh gia đình. Nhưng phải có đủ các khí cụ thờ phụng để khi hành lễ thì thắp nến, thắp hương, và trang trọng hơn thì đốt trầm.
Hằng ngày, tín đồ đạo Cao Đài hành lễ bốn lần, gọi là cúng tứ thời, vào : 1/ giờ Tí – 24 giờ nửa đêm; 2/ giờ Mẹo (6 giờ sáng); 3/ giờ Ngọ (12 giờ trưa); và 4/ giờ Dậu (6 giờ chiều). Thân nhân của tín hữu Cao Đài còn tụ họp để kinh nguyện trong các dịp thờ phụng tổ tiên, lễ lạc của gia đình và giỗ húy nhật.
Mỗi tháng hai ngày. (1) Ngày Mùng một đầu tháng (sóc) và (2) ngày Rằm trăng tròn (vọng), các tín hữu phải tề tựu tới thánh thất để làm lễ, dưới sự chủ lễ của một chức sắc. Ngoài ra còn có những ngày đại lễ, cũng như những dịp hôn phối, lễ nhập đạo của dâu rể hoặc con cái.
Lễ vật dâng cúng trong những buổi hành lễ rất đơn sơ, chủ yếu là hoa, rượu và trà, tượng trưng cho Tinh, Khí và Thần. Sáng sớm và buổi chiều cúng dâng nước trà, trưa và đêm thì dâng rượu lễ chưng cất bằng trái nho. Những ngày sóc và vọng hay đại lễ, kỵ giỗ, thì có thêm phần cúng lễ bằng hoa quả.
– Tổ chức (cơ cấu phẩm trật):
Một cách tổng quát, đạo Cao Đài được tổ chức rất chặt chẽ với những sinh hoạt và quản lý rất có tính nội bộ – có phần giống với hệ thống tổ chức và phẩm trật của giáo hội Công giáo La Mã – với một Tòa thánh ở trung ương và ba ngành giống như tam quyền phân lập (lập pháp, hành pháp và tư pháp). Các cơ sở thì có Tỉnh đạo (hoặc Châu đạo), xuống tới Họ đạo (ở quận hoặc xã tùy vào số lượng phát triển tín đồ) Cao Đài, có các chức việc gọi là Ban Trị sự; còn việc tế tự tại thánh thất của Họ đạo thì thường là một vị Lễ sinh cử xướng.
Đạo Cao Đài có các tu viện, được gọi là tịnh thất, dành cho những tín đồ muốn đến ở nội trú mà thường trực tu luyện ngày đêm.
Các chức sắc: Đức Giáo tông, Chưởng pháp, Đầu sư, Phối sư, Giáo sư, Giáo hữu, Lễ sinh, Chức việc (Chánh, Phó trị sự và Thông sự), Tín đồ.
* Cách LBTM cho những người Cao đài giáo.
Đạo cao đài nhìn chung giống như một tân giáo tổng hợp, nên giáo lý cũng như một sự hỗn tạp, nên cũng thật khó để nắm bắt cách tường tận hết được những điểm Giáo lý của đạo. Vì thế, chúng ta tìm điểm chung nhất để nói chuyện với họ, và dựa trên “năm nguyên tắc chung” có lẽ là khả thi nhất. Năm nguyên tắc chung là: Luân lý, triết lý, thờ phụng, tâm linh và thông linh.
Về luân lý: Cao Đài dạy mọi người phải giữ đúng bổn phận đối với bản thân, với gia đình và với xã hội. Ki-tô giáo cũng dạy mọi người phải giữ như thế, nhưng dựa vào ơn Chúa và gương Chúa để giữ cách viên mãn.
Về triết lý: Cao đài dạy con người nên từ bỏ danh vọng, tiền tài và không nên sống xa hoa, tự mình vượt thoát khỏi những ham muốn vật chất để tìm kiếm sự thanh thản tâm hồn và thanh khiết linh hồn. Ki-tô giáo cũng muốn con người sống siêu thoát với tiền, tài và danh vọng theo gương Đức Giê-su khó nghèo, vâng phục và khiết tịnh.
Về thờ phụng: Cao đài dạy con người phải tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế, Đấng Chí tôn, người cha hiền của tất cả, đồng thời phải thờ kính Thần, Thánh, Tiên, Phật. Khi giới thiệu Ki-tô giáo, chúng ta cho họ biết Thượng Đế đích thực là Thiên Chúa, chỉ tôn thờ một mình Người, còn các bậc thánh nhân, chỉ kính nhớ mà thôi. Đồng thời, chỉ có Chúa là Đấng quyền năng, còn tất cả chưa thần chư thánh chỉ là thụ tạo không có quyền năng ban ơn mà chỉ có chuyển cầu mà thôi.
Về tâm linh: Cao đài xác nhận sự tin tưởng vào tính cách tồn tại vĩnh viễn của linh hồn con người. Linh hồn ấy có thể biến chuyển và chịu sự luân hồi tùy vào nghiệp quả các hành động của mình lúc sinh thời, cho tới khi toàn hảo và nhập làm một vào Đấng Chí tôn. Khi giới thiệu về Ki-tô giáo, chúng ta cho họ biết linh hồn bất tử, nhưng chết là kết thúc vĩnh viễn cuộc sống trần gian và đi vào vĩnh cửu với Chúa, chứ không có chuyện luân hồi.
Về thông linh: Cao đài cho rằng con người phải tu tập, đạt tới sự tịnh tâm để khám phá chân lý, làm sáng tỏ và củng cố Chân thần cùng thông linh với nguyên khí của vũ trụ, cũng là của Đức Ngọc hoàng Thượng đế. Khi rao giảng về Ki-tô giáo thì phải xác quyết cho người ta thấy không có chuyện tiếp xúc với thần thánh bằng cầu cơ hay tu tập, mà là tin và nhờ Chúa mạc khải cho, cũng như qua sự cầu nguyện, học hỏi, suy tư và chiêm nghiệm. Các bí tích là phương thế giúp con người đến gần và gặp gỡ Thiên Chúa hơn hết.
6. ĐẠO THỜ TRỜI
– Hình thành
Tin vào một Đấng Tạo Hóa là niềm tin rất tự nhiên của con người có trí khôn. Con người nhỏ bé và yếu hèn đứng trước một vũ trụ bao la huyền bí mới cảm nhận được rằng có Trời – đấng tạo ra vũ trụ, muôn loài – mới có thể giải đáp một cách thỏa đáng mọi ưu tư của mình. Vì vậy, tin có Trời và thờ Trời như một tín ngưỡng “mặc khải” vượt cả không gian lẫn thời gian và từ đó cũng trải qua thời gian hình thành nên những cách thức để cầu xin và tạ ơn Trời sao cho hợp với lòng chân thành và biết ơn Trời. Niềm tin vào Trời trải theo thời gian chiêm nghiệm và sự ảnh hưởng của những tôn giáo khác đã kết dệt nên một ông Trời ít nhất có 4 đặc tính: Hằng Hữu, Sáng Tạo và Quan Phòng, Yêu Thương, Công Minh thưởng phạt.
Đấng Hằng Hữu: Người Việt tin rằng Trời là đấng hữu ngã, hữu vị, nên thường kêu Trời là “ông”.
Đấng Sáng Tạo và Quan Phòng: Trời tạo dựng lên vũ trụ, muôn loài, nên Trời có “trách nhiệm” nuôi dưỡng những loài thụ tạo. Người Việt đã diễn tả niềm tin đó qua những câu ca dao, tục ngữ dưới đây: Trời sinh, Trời dưỡng. Trời sinh voi, Trời sinh cỏ. Cha mẹ sinh con, Trời sinh tính. Thuốc chữa được bệnh, chẳng chữa được mệnh… Trời định việc lấy vợ gả chồng. Trời định phân chia quốc gia: Tiệt nhiên định phận tại Thiên thư…
Đấng Đầy Lòng Thương Xót: Người Việt tin rằng Trời là đấng lòng lành vô cùng, từ bi hay thương xót kẻ thụ tạo. Gặp khó khăn, tai nạn, người Việt chỉ còn biết cầu Trời cho tai qua nạn khỏi như: Trăm sự nhờ Trời. Lạy Trời mưa xuống, Trời cho hơn lo làm. Trời đánh còn tránh miếng ăn…
Đấng Thưởng Phạt và Phép tắc vô cùng: Người Việt tin rằng Trời cầm cân nẩy mực, kẻ gian ác bị trừng phạt, người hiền lương được thưởng: Trời có mắt. Không có Trời, ai ở với ai. Trời nào có phụ ai đâu. Những người nhân đức Trời dành phúc cho. Ở xởi lởi thì Trời gởi cho, Ở xo lo thì Trời gói lại…
Qua thi ca, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) đã mô tả Trời là đấng giầu lòng thương xót, cầm cân nẩy mực, khuyên người đời nên làm lành tránh dữ.
– Bàn thờ Trời
Người Việt tin rằng ông Trời là đấng quyền phép vô cùng và giàu lòng thương xót. Khi gặp tai họa, họ chỉ cầu Trời, luôn tỏ lòng biết ơn đấng đã phù trợ cho họ. Nhiều nhà đều lập bàn thờ ông Thiên trước nhà, hoặc bàn thờ Thông Thiên (Phật Giáo Hòa Hảo), hay Thiên Nhãn (Cao Đài).
Cao điểm của lòng biết ơn là lễ tế Trời, còn gọi tế Nam Giao. Sau khi tắm gội sạch sẽ, một mình nhà vua lên lễ đài lộ thiên, tế Trời, cầu cho quốc thái dân an.
– Ảnh hưởng từ các tôn giáo
Các tôn giáo khác như Khổng giáo, Phật giáo, Công Giáo truyền bá sang Việt Nam. Sở dĩ có sự dễ dàng du nhập, vì giáo lý các tôn giáo không mâu thuẫn với tôn chỉ “thờ Trời, yêu người” của Đạo Trời:
Khổng giáo: Ý thức được rằng vũ trụ này do một vị Thượng Đế tạo dựng lên, chủ trương sống theo thiên mệnh “Thuận thiên giả tồn, nghịch thiên giả vong”. Muốn có hạnh phúc, con người phải biết thờ kính Trời và hành động theo ý Trời. Ngài còn khuyên bảo: “Phạm tội với Trời, thì còn cầu nguyện vào đâu được (hoạch tội ư thiên, vô sở đảo ngã) hoặc ăn ở bất nhân thất đức, cầu nguyện lễ bái, dù liên lỉ đến đâu cũng là vô ích.
– Phật giáo: Đức Phật giữ thái độ “không phủ nhận, không xác nhận”, khi đệ tử hỏi có Thượng Đế hay không? Nên đa số Phật tử Việt Nam vẫn không thể bỏ niềm tin cố hữu vào ông Trời, và vẫn cúng giỗ ông bà vì tin rằng dù chết nhưng linh hồn ông bà vẫn còn ở với con cháu.
– Công Giáo: Đạo Chúa truyền sang Việt Nam từ thế kỷ thứ XVI. Tôn chỉ “mến Chúa, yêu người” hẳn không xa lạ gì đối với Đạo Trời nơi người Việt. Giáo hội Công giáo đã cố gắng Việt Nam hóa những nghi lễ phụng vụ như bàn thờ Tổ Tiên được trưng bày dưới bàn thờ Chúa tại mỗi gia đình; đem những nhạc khí, điệu hát dân gian vào trong thánh ca, lễ nhạc; ngay cả đến quan hôn tang tế cũng được cử hành theo nghi lễ cổ truyền dân tộc.
* Cách LBTM cho những người thờ Trời.
Thiết nghĩ, tin vào trời như là bản chất và trong thâm tâm ai cũng có niềm tin vào trời rất tự nhiên, đến nỗi như là một sự phản xạ, buột miệng kêu “trời ơi” hay “lạy trời” trong mọi lúc vui buồn hay tình huống giật mình; người ta cũng thường dùng trời để cầu phúc hay nguyền rủa nhau như “trời có mắt trời trả cho mày”, “trời thương trời trả công cho”, “xin trời chứng dám”… Vì vậy, để đem Chúa đến cho họ, thì điều đầu tiên phải giúp họ nhận biết ông Trời ấy là ai, và đâu là cách tốt nhất và chắc chắn để liên hệ với Người và làm con của Người.
Thứ đến, hãy giới thiệu chân dung một Vị Thiên Chúa qua những đặc tính sẵn có trong niềm tin bình dân vào Trời: Đấng Hằng Hữu, Sáng Tạo và Quan Phòng, Yêu Thương và Công Minh thưởng phạt.
Sau đó, nói với họ về Chúa Giê-su Ki-tô đã đến từ trời, để mặc khải cho con người biết Thiên Chúa là ai. Nhờ Ngài, chúng ta không còn lầm lẫn mày mò không biết thờ Chúa Trời thế nào cho đúng như bấy lâu nay.
Đặc biệt, Đạo Công Giáo giúp mọi người trở thành một gia đình, con cùng một Cha là ông Trời, mọi người là anh em yêu thương liên kết với nhau trong một giáo điểm, giáo họ hay giáo xứ và cả Giáo hội. Từ đây sẽ không còn cảm thấy cô đơn lạc lõng giữa cuộc đời.
7. “ĐẠO THỜ ÔNG BÀ TỔ TIÊN”
– Hình thành
Cơ sở quan trọng đầu tiên cho việc hình thành bất cứ tôn giáo tín ngưỡng nào cũng là quan niệm tâm linh của con người về thế giới. Cũng như nhiều dân tộc khác, người Việt xuất phát từ nhận thức “vạn vật hữu linh” – mọi vật đều có linh hồn, và bắt đầu từ giới tự nhiên xung quanh mình, và linh hồn trở thành đầu mối của tín ngưỡng. Từ quan niệm đó hình thành nên niềm tin về sự tồn tại của linh hồn và mối liên hệ giữa người đã chết và người sống (cùng chung huyết thống). Người đã chết bằng linh hồn trở về chứng kiến, theo dõi hành vi của con cháu, quở trách hoặc phù hộ cuộc sống của họ.
Ngoài lí do tin vào những người đã khuất, ý thức tôn trọng cội nguồn và đức tính hiếu thảo của người Việt cũng là cơ sở quan trọng hình thành nên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên. Con cháu bày tỏ lòng biết ơn đối với các bậc sinh thành, lúc họ đã chết cũng như khi còn sống đồng thời cũng thể hiện trách nhiệm liên tục và lâu dài của con cháu đối với nhu cầu của tổ tiên. Trách nhiệm được biểu hiện không chỉ trong các hành vi sống (giữ gìn danh dự và tiếp tục truyền thống của gia đình, dòng họ, đất nước) mà còn ở trong các hành vi cúng tế cụ thể. Từ đó, tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên dần được hình thành.
Tín ngưỡng của tục thờ cúng tổ tiên tồn tại ở nhiều dân tộc Đông Nam Á song nó vẫn được xem như là tín ngưỡng đặc trưng cho người Việt về tính phổ biến của nó đối với cộng đồng, hầu như trong mỗi gia đình người Việt đều có bàn thờ gia tiên.
Người phương Đông vốn có thói quen tâm lý duy tình nhưng biểu hiện này ở người Việt càng trở nên sâu sắc hơn. Con người vừa chịu quan niệm “sống vì mồ mả, ai sống vì bát cơm” mong được nhận “phúc ấm của tổ tiên” nhưng lại lo trách nhiệm để phúc cho con cháu “đời cha ăn mặn đời con khát nước”. Bởi vậy mà khi cúng lễ tổ tiên, một mặt con người hướng về quá khứ, định hướng cho hiện tại (giáo dục truyền thống gia đình, đạo lý làm người cho con cháu) và mặt khác đã chuẩn bị cho tương lai.
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên có nội dung bình dị và giàu tính thực tiễn, không cực đoan như nhiều tôn giáo khác. Bằng việc thờ cúng tổ tiên, thế hệ trước nêu gương cho thế hệ sau không chỉ vì trách nhiệm đối với các bậc sinh thành mà còn để giáo dục dạy dỗ con cháu lưu truyền nòi giống. Trong khi tế lễ, lời khấn vái của họ cũng thật giản dị, rất thực tiễn: lời cầu xin che chở, phù trợ cho cuộc sống hàng ngày của họ được bình yên, suôn sẻ. Không biết sự cầu xin ấy hiệu quả như thế nào, nhưng trước hết, con người cảm thấy thanh thản về mặt tâm linh, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cuộc sống. Do đó, khả năng phổ biến trong không gian và thời gian của tín ngưỡng này cũng là một điều dễ hiểu
Cơ sở xã hội: Khi bước vào chế độ phụ quyền, vai trò của người đàn ông trở nên quan trọng trong họat động kinh tế và sinh họat của gia đình. Con cái mang họ cha và con trai kế tiếp ý thức về uy quyền trong gia đình của mình. Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên bắt nguồn từ đấy.
– “Giáo lý”
Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên còn chịu ảnh hưởng từ ba dòng tôn giáo là Nho, Phật, Lão. Nho giáo: Theo như Khổng Tử, sự sống của con người không phải do tạo hóa sinh ra càng không phải do bản thân tự tạo ra mà nhờ cha mẹ, sự sống của cha mẹ lại gắn với ông bà và cứ như vậy thế hệ sau kế tiếp thế hệ trước, vì thế mà thế hệ sau phải biết ơn thế hệ trước. Đạo giáo: Góp phần củng cố niềm tin vào sự tồn tại và năng lực siêu nhiên của linh hồn những người đã chết thông qua một số nghi lễ thờ cúng như: gọi hồn, bùa chú, ma chay, tang lễ, mồ mả và đốt vàng mã. Phật giáo: Quan niệm về cái chết, kiếp luân hồi và nghiệp báo. Người Việt Nam quan niệm rằng cha mẹ tổ tiên luôn lo lắng, quan tâm cho con cái ngay cả khi họ đã chết. Người sống chăm lo đến linh hồn người chết, vong hồn người chết sẽ quan tâm đến sự sống của người đang sống.
Với người Việt, trong gia đình hình ảnh của những người đã khuất luôn luân hiện hữu và không xa rời đời sống của những thành viên trong gia đình và làng xã. Tổ tiên cũng tồn tại ở một thế giới siêu hình mà con người không thể nhìn thấy được. Trong gia đình bàn thờ là nơi con cháu lưu giữ những hình ảnh thân thuộc nhất về những người đa khuất. Việc thờ cúng được lặp đi lặp lại như một công việc quen thuộc, khơi dậy trong con cháu những kí ức về tổ tiên.
– Ngày thờ cúng
Lệ thuộc vào văn hóa vùng miền, nên cũng không có một cách thờ cúng hành lễ thống nhất. Tuy nhiên, có thể lược ra sự phổ biến sau đây:
Cúng gia tiên: Người Việt thường cúng Gia tiên vào ngày Sóc – Vọng (Sóc là ngày Mồng Một, Vọng là ngày Rằm hàng tháng), lễ Tết, giỗ hoặc bất kỳ lúc nào cần được gia tiên phù hộ như: sinh con, đẻ cái, kết hôn, làm nhà, lập nghiệp, có trục trặc về sức khỏe. Đây là cách để thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn.
Cúng giỗ: Trong tục thờ cúng tổ tiên, người Việt coi trọng việc cúng giỗ vào ngày mất (còn gọi là kỵ nhật) thường được tính theo âm lịch (hay còn gọi là ngày ta). Họ tin rằng đó là ngày con người đi vào cõi vĩnh hằng.
Cúng trình báo: Những khi trong nhà có việc quan trọng như dựng vợ gả chồng, sinh con, làm nhà, đi xa, thi cử…, người Việt cũng dâng hương, làm lễ cúng tổ tiên để báo cáo và để cầu tổ tiên phù hộ, hay để tạ ơn khi công việc thành công. Bản chất việc thờ cúng tổ tiên của người Việt là từ niềm tin người sống cũng như người chết đều có sự liên hệ mật thiết và hỗ trợ nhau. Con cháu thì thăm hỏi, khấn cáo tiền nhân. Tổ tiên thì che chở, dẫn dắt hậu thế nên việc cúng giỗ là thực hiện mối giao lưu giữa cõi dương và cõi âm.
– Nghi lễ
Trước khi tiến hành nghi lễ thờ cúng gia chủ phải tắm rửa sạch sẽ, phải mặc quần áo chỉnh tề.
Vái là chắp hai bàn tay lại để trước ngực rồi đưa lên ngang đầu, hơi cúi đầu và khom lưng xuống rồi sau đó ngẩng lên, đưa hai bàn tay xuống lên theo nhịp lúc cúi xuống khi ngẩng lên. Tùy theo từng trường-hợp, người ta vái 2,3,4, hay 5 vái.
Lạy là hành-động bày tỏ lòng tôn-kính chân-thành với tất-cả tâm-hồn và thể-xác đối với người trên hay người quá-cố vào bậc trên của mình. Có hai thế lạy: thế lạy của đàn ông và thế lạy của đàn bà. Có bốn trường hợp lạy: 2 lạy, 3 lạy, 4 lạy, và 5 lạy. Mỗi trường hợp đều có mang ý-nghĩa khác nhau. Ở đàn ông và đàn bà có tư thế vái và lạy khác nhau (tùy nơi mà tìm hiểu để không bất kính).
Lễ vật: Thịt động vật để cúng gia tiên là những động vật mà con người cho là “thịt sạch”. Những con vật được dùng là lễ cúng gà và lợn là những đồ lễ quan trọng của người Việt trong mọi nghi lễ: tục thờ cúng tổ tiên, thành hoàng, thổ thần, cúng trời đất… Với hoa quả cũng vậy hoa quả dâng lên tổ tiên là những loại quả mà gia đình trồng được, với ý nghĩa dâng lên tổ tiên thành quả lao động của mình.
Ý nghĩa sâu xa của việc cúng lễ là đạt đến đỉnh cao của Chân – Thiện – Mĩ. Việc cúng lễ không cần cầu kì, cốt yếu ở việc thành tâm.
– Bàn thờ tổ tiên
Trong gia đình người Việt thường có một bàn thờ tổ tiên, ông bà (hay còn gọi ông Vải). Tuỳ theo từng nhà, cách trang trí và sắp đặt bàn thờ khác nhau. Biền, bàn thờ là nơi tưởng nhớ, là thế giới thu nhỏ của người đã khuất. Hai cây đèn tượng trưng cho mặt trời, mặt trăng, hương là tinh tú. Hai bát hương để đối xứng, phía sau hai cây đèn thường có hai cành hoa cúc giấy, với nhiều bông nhỏ bao quanh bông lớn. Cũng có nhà cắm “cành vàng lá ngọc” (một thứ hàng mã) với cầu mong làm ăn được quả vàng, quả bạc, buôn bán lãi gấp 5 hoặc gấp 10 lần năm trước. Ở giữa có trục “vũ trụ” là khúc trầm hương dưới dạng khúc khuỷu, vươn lên trong bát hương. Nhiều gia đình đặt xen giữa đèn và hương là hai cái đĩa để đặt hoa quả lễ gọi là mâm ngũ quả (tuỳ mỗi miền có sự biến thiên các loại quả, nhưng mỗi loại quả đều có ý nghĩa của nó), phía trước bát hương để một bát nước trong, coi như nước thiêng. Hai cây mía đặt ở hai bên bàn thờ là để các cụ chống gậy về với con cháu, dẫn linh hồn tổ tiên về nhân gian.
Bàn thờ tổ tiên bao giờ cũng đặt tại nơi cao ráo, sạch sẽ và trang trọng nhất trong nhà (gian giữa đối với nhà một tầng, tầng trên cùng đối với nhà tầng). Trên bàn thờ thì bày bát hương, chân đèn, bài vị hay hình ảnh người quá cố, chỗ thắp nến. Đồ cúng cơ bản không thể thiếu hương, hoa, chén nước lã. Ngoài ra có thể có thêm thức ăn, trà rượu, và có khi có cả đồ vàng mã (quần áo đồ dùng làm bằng giấy), tiền âm phủ… Sau khi tàn một nửa tuần hương, đồ vàng mã và tiền âm phủ được đem đốt, được gọi là hoá vàng, còn chén rượu cúng thì đem rót xuống đống tàn vàng. Tục truyền rằng phải làm như vậy người chết mới nhận được đồ cúng tế, vì hương khói bay lên trời, nước (rượu) hòa với lửa mà thấm xuống đất.
Bàn thờ người mới chết: Những người mới mất chưa được thờ chung với tổ tiên mà được lập một bàn thờ riêng tại gian thờ hoặc gian nhà ngang, được bài trí tương đối sơ sài: một bát nhang, bài vị (hoặc ảnh), lọ hoa, chén nước, ngọn đèn… Trong vòng 100 ngày (tính từ ngày an táng xong), người ta đều thắp hương cơm canh trước khi gia đình ăn cơm, mời người mới mất thụ hưởng. Lúc này, linh hồn người chết còn quyến luyến người thân, “hồn vía còn nặng” chưa thể siêu thoát được, vẫn còn luẩn quẩn xung quanh nhà. Những người sống không muốn tin vào sự thật là họ vừa mới mất đi một người thân, làm vậy để dịu nỗi buồn. Nhưng có nơi chỉ cúng 49 ngày (tức lễ chung thất). Sau 49 ngày, bát nhang người mới mất sẽ được rước lên bàn thờ tổ tiên. Sau lễ trừ phục (còn gọi là đàm tế) bàn thờ người mới mất sẽ được loại bỏ cùng những đồ thờ riêng, đưa ảnh chân dung và bát nhang lên bàn thờ tổ tiên, đặt hàng dưới.
* Cách Loan Báo Tin Mừng cho những người theo “đạo ông bà”.
Hiểu lầm lớn nhất mà người theo đạo ông bà dành cho Người Công Giáo, là họ cho rằng theo Đạo Công Giáo là bỏ ông bà tổ tiên, đánh mất đạo hiếu, coi thường tôn ti trật tự trong gia đình. Những điều này không chỉ là một sự hiểu lầm trong quá khứ thời kỳ bách hại của các vua chúa, mà cho đến nay vẫn là một sự dè dặt dành cho các bạn trẻ khi muốn kết hôn với một người Công Giáo. Vì vậy, để truyền giáo được cho họ, điều đầu tiên phải nhắm tới là phải đả thông được cho họ về vấn đề “thờ ông bà tổ tiên”.
Phải xác định ngay là, “thờ cúng ông bà tổ tiên” không phải là một tôn giáo, bởi tôn giáo là thờ phượng một Đấng là thần minh, cùng với những lễ nghi luật lệ rõ ràng và ràng buộc. Dù nhiều người Việt tin rằng việc thờ kính ông bà tổ tiên là một tôn giáo (Đạo Ông Bà). Họ “thờ” tổ tiên như “thờ” thần thánh hoặc Thiên Chúa, một Đấng Tối Cao. Theo đó, nhiều nghi thức được thêu dệt đến nỗi gây nhiều hiểu lầm, và có thể là cả mê tín dị đoan (đốt vàng mã, gọi hồn, của cúng…).
Để trả lời cho những vấn nạn “thờ ông bà”, chúng ta vận dụng những điều mà HĐGMVN qua những lần ra chỉ thị từ sau Công đồng Vaticano II để “không hủy bỏ hay dập tắt những giá trị thiện hảo, liêm chính, chân thành của các dân tộc”. Quyết nghị ngày 14/11/1974, HĐGM/NVN nhấn mạnh lòng hiếu thảo với ông bà tổ tiên và nghi lễ tôn kính vị thành hoàng với những xác định cụ thể như sau: “Việc đốt nhang hương, đèn nến trên bàn thờ gia tiên và vái lạy trước bàn thờ, giường thờ tổ tiên, là những cử chỉ thái độ hiếu thảo tôn kính, được phép làm” (số 2); “Được tham dự nghi lễ tôn kính vị thành hoàng quen gọi là phúc thần tại đình làng, để tỏ lòng cung kính biết ơn những vị mà theo lịch sử đã có công với dân tộc hoặc là ân nhân của dân làng, chứ không phải là mê tín như đối với các “yêu thần, tà thần” (số 6).
Hãy nói cho họ biết: Người Công Giáo luôn thờ kính ông bà, cha mẹ, tổ tiên và những người đã khuất. Trên hết, đó là điều răn, là giới luật của Thiên Chúa: Thảo kính cha mẹ. Lòng tôn kính liên kết với ông bà tổ tiên trong cả tháng Mười Một, vốn là tháng con cháu kính nhớ, cầu nguyện cho những người thân yêu đã qua đời. Mồng Hai Tết – kính nhớ ông bà tổ tiên. Trong thánh lễ, Linh mục thay mặt cộng đoàn cầu nguyện cho: “anh chị em đã ly trần, và mọi người, đặc biệt các bậc tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc…” Đó chưa kể đến nhiều người thường xin lễ, đọc kinh, viếng đất thánh, nhà hài cốt thường xuyên, để cầu nguyện cho những người thân đã khuất.
Và khi đã đả thông được những khúc mắc trên, sẽ dễ đem Tin Mừng đến cho họ.
8. CÁC TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN
Người Việt có nhiều tín ngưỡng dân gian, phần do chính văn hóa và các giai thoại bản địa tạo nên, phần do được tôn sùng hoặc phong sắc, phần do ảnh hưởng biến thể từ những đạo khác hội nhập vào. Các tín ngưỡng dân gian không có một tổ chức cơ cấu cụ thể, không có một nghi lễ thống nhất về thờ cúng, và không có sự ràng buộc mang tính luật lệ tôn giáo riêng biệt.
a. Tín ngưỡng thờ Mẫu.
Là tín ngưỡng dân gian đã tồn tại lâu đời và phổ biến tại VIệt Nam. Xuất phát từ sự biết ơn đối với người phụ nữ, người mẹ trong xã hội, trong nhận thức sơ khai của con người, từ đó cho ra tín ngưỡng này. Nền văn hóa của người Việt Nam là nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, nên gắn liền với các yếu tố tự nhiên, sự sinh sôi nảy nở. Vì vậy, họ tin tưởng, tôn vinh và thờ phụng những vị nữ thần gắn liền với các hiện tượng tự nhiên trong vũ trụ, được cho rằng là có chức năng sản sinh, bảo vệ, che chở cho cuộc sống của con người.
Hiện nay, Việt Nam tin có khoảng 75 vị nữ thần, trong đó có 3 vị nữ thần tồn tại trong truyền thuyết như ba chị em, con của Ngọc hoàng giáng xuống cai quản ba miền: Miền Bắc với sự nổi trội của mẫu Liễu Hạnh, miền Trung với Thiên Y A Na Diễn Phi Chúa Ngọc và miền Nam là Linh sơn Thánh Mẫu (Bà Đen).
Theo chiều dài của lịch sử, Tín ngưỡng thờ Mẫu đã phát triển có Tam phủ, Tứ phủ. Trong các làng xã và đô thị miền Bắc từ xưa: Tam phủ gồm Thiên phủ (cõi trời), Nhạc phủ (miền rừng), Thoải phủ (miền sông nước), sau này có thêm Địa phủ (cõi đất) nên mới gọi là “Tứ phủ”.
Mẫu Thượng Thiên (Thiên phủ) cai quản miền trời và là biểu tượng của mây, mưa, sấm, chớp… áo màu đỏ.
Mẫu Thượng Ngàn (Nhạc phủ) cai quản miền rừng, áo màu xanh lá.
Mẫu Thoải (Thoải phủ) cai quản miền sông nước, áo màu trắng.
Mẫu Địa (Địa phủ) cai quản miền đất đai, áo màu vàng.
“Phồn”: nhiều, “thực”: nảy nở. Phồn thực là khát vọng cầu mong sự sinh sôi nảy nở của con người và tạo vật, lấy các biểu tượng về sinh thực khí và hành vi giao phối làm đối tượng. Ở Việt Nam, Tín ngưỡng phồn thực là một trong những tín ngưỡng lâu đời, xuất hiện trong nền kinh tế nông nghiệp, với ước vọng cầu được mưa thuận gió hòa, cơm no áo ấm từ ngàn đời của cư dân.
Đối với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước, các biểu tượng âm – dương, đất – trời, non – nước là những yếu tố chính tạo nên sự sinh sôi nảy nở của vạn vật, tất cả đều hòa quyện giữa sinh thực khí tự nhiên để tồn tại và phát triển.. Bên cạnh việc thờ sinh thực khí, cư dân nông nghiệp lúa nước với lối tư duy chú trọng tới quan hệ còn có tục thờ hành vi giao phối, tạo nên một dạng tín ngưỡng phồn thực độc đáo.
Như vậy, phồn thực có hai loại: Thờ sinh thực khí và thờ hành vi giao phối.
Việc thờ sinh thực khí hay thờ hành vi giao phối không hề có việc cúng bái hay tin những việc đó có quyền năng ban ơn, nhưng chỉ có những kiến trúc và lễ hội về biểu tượng đó để mọi người tham dự cầu phúc ho nhau và mong sự yên bình và phát triển cho dân.
c. Tín ngưỡng thờ Thành Hoàng làng.
Tín ngưỡng thờ Thành hoàng là tục thờ cúng của cư dân nông nghiệp Việt Nam từ lâu. Vốn có nguồn gốc từ Trung Quốc, sau đó du nhập vào Việt Nam kết hợp với văn hóa bản địa rồi tạo thành tín ngưỡng này. Thành hoàng bắt đầu từ chữ Hán: “thành” là cái tòa thành, “hoàng” là cái hào quang bao quanh tòa thành và khi ghép chúng lại thành một từ để chỉ vị thần, thánh coi giữ, bảo vệ cho tòa thành.
Thành hoàng làng có thể là thần núi, thần sông, thần đất… hoặc cũng có khi là tổ nghề, anh hùng dân tộc (phần lớn do vua phong). Đối với người dân trong làng, Thành Hoàng là vị thần bảo hộ cho cả làng. Thần ngự trị tại đình làng sẽ phù hộ cho nhân dân được mưa thuận gió hòa, mùa màng tươi tốt, cả làng an khang thị vượng. Người ở hiền sẽ gặp lành, người ở ác thì sẽ bị trừng phạt. Xét về mặt này, Thành Hoàng mang giá trị nhân văn sâu sắc, là vị thần hiện thân của kỷ luật và hình phạt.
Đình chính là nơi thờ Thành Hoàng. Đình vừa là nơi sinh hoạt văn hóa, vừa là không gian tôn giáo tín ngưỡng, đồng thời cũng là cơ quan hành chính của cả làng. Thành Hoàng làng gắn liền với lễ hội. Lễ hội chính là biểu hiện sự biết ơn sâu sắc, lòng tôn kính và sự nhớ nhung khôn nguôi với người có công với làng, với nước – một nét đẹp trong đạo Hiếu của người Việt.
Việc thờ cúng Thần Thành Hoàng giúp củng cố tình đoàn kết giữa xóm làng, giữa tộc họ và giữa mọi người với nhau trên khắp mọi nơi trên đất nước. Gìn giữ tín ngưỡng thờ Thành Hoàng sẽ giúp giáo dục thể hệ trẻ biết ơn đối với tổ tiển, ông bà, quê hương, đất nước.
Tứ bất tử là tên gọi chung của bốn vị thánh không bao giờ chết (bất tử) trong tín ngưỡng dân gian của người Việt: Tản Viên Sơn Thánh, Phù Đổng Thiên Vương, Chử Đồng Tử và Công Chúa Liễu. Những vị thánh trong Tứ bất tử phản ảnh những ước mơ, nguyện vọng của người Việt.
Thánh Tản Viên. Truyện cổ tích kể rằng ông chính là Sơn Tinh được làm rể Vua Hùng và vì thế có mối thù truyền kiếp gây nên chiến tranh với Thủy tinh. Tản Viên Sơn Thánh (Sơn Tinh) tượng trưng cho ước vọng chinh phục tự nhiên, chiến thắng thiên tai.
Phù Đổng Thiên Vương (Thánh Gióng) là người đánh giắc Ân về đời vua Hùng Vương thứ 6, người làng Phủ Đổng, huyện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh. Thánh Gióng kết tinh ý chí chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta.
Chử Đồng Tử là người Chữ Xá, huyện Văn Giang tỉnh Bắc Ninh là con trai ông Chử Cù Vân thường được người ta tôn là Chử Đạo Tổ, Chữ Đồng Tử đã kết duyên với Tiên Dung Công Chúa, con gái Vua Hùng Vương. Ngài tượng trưng cho tình yêu, hôn nhân và sự sung túc giàu sang.
Công Chúa Liễu Hạnh là người làng Vân Cát , huyện vụ bản tỉnh Nam Định, ái nữ của Lê Thái Công. Bà là người văn hay chữ tốt đã được Triều đình sắc phong Công Chúa. Bà là biểu hiện cho cuộc sống phồn vinh, phong phú về tinh thần
Bốn vị thánh này là biểu tượng của sự trường tồn và bất diệt trong tâm thức dân gian.
e. Tín ngưỡng sùng bái tự nhiên.
Với một đất nước có nền văn hóa nông nghiệp lúa nước nên việc sùng bái tự nhiên là điều dễ hiểu. Người Việt quan niệm rằng, thiên nhiên chính là mẹ, là hình tượng vị Nữ thần vạn năng đem lại no ấm, trù phú và bảo hộ cho từng con dân. Do ảnh hưởng của tín ngưỡng phồn thực nên các vị thần đó là các bà mẹ, các Mẫu.
Bà Trời, Bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên, quan trọng nhất, thân thiết nhất đối với cuộc sống của người làm nông nghiệp lúa nước. Họ tồn tại dưới dạng tín ngưỡng Tam phủ, Tứ phủ với Mẫu Thượng Thiên (Bà Trời), Mẫu Địa (Bà Đất), Mẫu Thoải (Bà Nước).
Tiếp theo là các bà Mây – Mưa – Sấm – Chớp – những hiện tượng có vai trò rất lớn trong cuộc sống cư dân nông nghiệp. Đến khi Đạo Phật du nhập vào Việt Nam thì nhóm nữ thần Mây – Mưa – Sấm – Chớp được nhạo nặn thành hệ thống Tứ pháp: Pháp Vân (Mây), Pháp Vũ (Mưa), Pháp Lôi (Sấm), Pháp Điện (Chớp).
Người Việt Nam là dân tộc đa dạng trong việc thờ các vị thần có nguồn gốc từ động vật, thực vật. Với nếp sống là nông nghiệp, họ từ những con thú gắn liền với ruộng đồng như: cóc, chó, cá, hạc, rồng (sự kết hợp của cá sấu, rắn),… Thực vật thì được tôn sùng nhất là cấy Lúa: Khắp nơi, dù là vùng người Việt hay vùng dân tộc – đều có tín ngưỡng thờ Thần Lúa, Hồn Lúa, Mẹ Lúa…
f. Tín ngưỡng thờ các vị Thần.
Thờ cúng các vị thần bảo vệ gia đình không hề xa lạ đối với người Việt Nam. Nếu như thờ cúng Tổ tiên là việc chính, là trách nhiệm của con cháu đối với ông bà, nói lên ước vọng chính của của gia đình; thì thờ các vị thần như Thổ công, Thần tài, Quan công,… sẽ bổ sung thêm những ước vọng khác của gia chủ.
Thần tài và ông Địa (Thần Tài) là hai vị thần được thờ cúng phổ biến tại Việt Nam. Có thể thấy ở khắp mọi nơi, từ các trong các ngôi chùa, đình, ám, miếu,… đến các hộ gia đình và đặc biệt là các của hàng buôn bán, người ta đều thờ thần Tài. Bởi chức năng của Thần tài là ban tài phát lộc, mang lại cuộc sống ấm no, sung túc, mua may bán đắt… cho gia chủ. Theo phong tục dân gian Mùng 10 tháng Giêng âm lịch chính là ngày Vía Thần Tài.
Ngoài ra Thần Trời, Thần Mặt Trăng, Thần các Vì Sao, ông Thần Sấm bà Thần Sét, ông Thần Bão bà Thần Lốc,… là các vị Thần gia bảo trong tín ngưỡng dân gian của một số vùng miền. Các thần bảo gia thường che chở cho gia chủ tránh khỏi sự phá rối của ma quỷ, ác thần, các rủi ro trong cuộc sống, gặp dữ hóa lành.
g. Tín ngưỡng thờ Bà Cô, Ông Mãnh.
Bà Cô, Ông Mãnh trong văn hóa Việt là những linh hồn vô cùng linh thiêng, là những người chết trẻ trong gia đình, dòng họ. Vì số chưa tận nên linh hồn họ chưa thể siêu thoát, tái sinh mà lưu luyến lại dương gian phù hộ độ trì cho con cháu.
Bà Cô
Bà cô hay còn được biết đến với tên gọi Bà Cô Tổ hay Bà Tổ Cô là người phụ nữ trẻ ở độ tuổi 12 – 18 tuổi trong gia đình, dòng họ khi chết chưa lấy chồng. Là những người quyến luyến gia đình nên sau khi chết rất linh thiêng và số chưa tận kiếp nên ở lại nhân gian nhận lĩnh nhiệm vụ quán xuyến, trông nom, theo dõi, để ý các công việc của họ hàng, con cháu và tùy duyên độ trì che chở.
Tuy họ rất linh thiêng nhưng không phải tất cả những người con gái chết trẻ đều trở thành bà Tổ Cô của gia đình, dòng họ. Chỉ có những vong linh nơi cõi âm, có duyên có căn cơ tu tập đạo Phật, đạo Mẫu mới có thể trở thành Bà Cô Tổ. Ngoài ra, tùy căn duyên độ trì, che chở bảo vệ giúp đỡ các thành viên trong dòng họ tránh được tà ma ngoại đạo quấy nhiễu, giúp giải hạn, làm ăn buôn bán phát đạt, con cháu đi đường gặp nhiều may mắn,…
Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt bà Cô trong gia đình, dòng họ có theo đạo Mẫu (đạo Tiên), nếu theo hầu các bà Chúa (như Bà chúa thượng ngàn, Bà chúa thoải phủ) thì nạp thêm danh hiệu mới là Chúa Tổ Cô. Trường hợp hầu các Chầu (như Chầu bé Bắc Lệ, Chầu Chín,….) thì có thêm danh hiệu nữa là Chầu Tổ Cô. Nếu bà Cô Tổ mang cả hai danh hiệu trên lại có tu tập tốt, thì sẽ mang nhiệm vụ khai sáng, giác ngộ, hướng dẫn đưa đường chỉ lỗi cho con cháu – những người có căn, có quả theo đường tu tập cho đúng với phận số.
Ông Mãnh
Ông Mãnh hay còn được gọi là Mãnh Tổ của dòng họ là người nam chết trẻ khi còn trong tuổi niên thiếu từ 13 tuổi trở lên, chưa lập gia đình hoặc những người đàn ông sống độc thân khi chết trung tuổi hoặc cao tuổi. Ông Mãnh là người tu tập theo đạo nhà Phật hoặc đạo Mẫu, chịu trách nhiệm giám sát, quản lý, giúp đỡ các vong linh của dòng họ ở nơi địa phủ.
Mãnh tổ có thể đảm nhiệm 2 chức vụ là Phán Quan hoặc Hành Sau nơi địa ngục. Bởi vậy mà khi gia đình có người thân mất đi, khi cúng 49 hoặc 100 ngày thường viết sớ gia tiên dâng lên thỉnh đến ông Mãnh Tổ của dòng họ với nguyện ước Ông Mãnh sẽ giúp đỡ cho con cháu thuận lợi, bình an vượt qua những kiếp nạn nơi địa ngục tối tăm, lạnh lẽo.
Trong một số trường hợp, mãnh Tổ của dòng họ có thể bị giam cầm nơi địa ngục trần thế do những tội lỗi gây ra khi hồn tiền dương thế, lúc này vong linh chưa thể tu tập học đạo. Tuy nhiên, nếu được thoát linh địa ngục thì Ông Mãnh sẽ được bổ nhiệm, cấp phép tu tập học đạo, giúp đỡ, độ trì cho con cháu.
Thông thường bàn thờ bà Cô Tổ, ông Mãnh sẽ được đặt ngay dưới hương án và tuyệt đối không đặt ngang hàng với bàn thờ gia tiên.
h. Tục thờ cúng cô hồn ở Việt Nam
Theo tín ngưỡng dân gian Nam Bộ thì cô hồn là những người chết oan, chết trẻ, những người chết bất đắc kỳ tử, chết do tai nạn… những người này không được đầu thai trở về một kiếp khác mà linh hồn họ cứ vất vưởng nơi trần gian không được siêu thoát, khác với những người chết già, chết bình thường, sau khi qua đời được chuyển kiếp, đầu thai thành kiếp khác. “Cô hồn: cái hồn cô đơn, không có ai đơm cúng”. Các cô hồn thường đói khát, thiếu thốn hại người, gia súc gia cầm, rình rập các lễ cúng để kiếm miếng ăn, được gọi là ma đói. Không chỉ có các hồn ấy nghiễm nhiên thành ma đói, ma dữ mà vong hồn có gia đình, người thân còn sống nhưng không được ai quan tâm cúng lễ cũng trở thành ma đói”.
Ở phía Trung và Bắc Bộ bàn thờ cúng cô hồn thường được đặt ở các bến sông, ngã ba, những nơi hay xảy ra tai nạn để cúng những vong hồn không may bị thiệt mạng do tai nạn hay chết đuối. Hoặc ở trong khuôn viên nhà thờ họ để cúng những cô hồn trong dòng họ gia tộc.
Một số nơi, dân gian Nam Bộ còn tin rằng các cô hồn này nếu muốn được đầu thai thì họ phải bắt đủ một trăm mạng người thế vào chỗ của mình. Đó là lý do một bộ phận dân Nam Bộ rất sợ cô hồn và thường xuyên cúng bái. Vì cô hồn được coi là một dạng ma quỷ nên người ta không thờ cúng trong nhà. Người ta thường làm một cái miếu nhỏ để thờ cô hồn. Cái miếu nhỏ này hoặc được đặt ở ngã ba sông để cúng cô hồn là những người chết đuối, hoặc được đặt ở ngã ba đường để cúng những người chết vì tai nạn giao thông.
Miếu cô hồn không phải để thờ cụ thể một người nào. Đối tượng được thờ thường là vô danh và qua nhiều giai đoạn thời gian khác nhau. Thông thường, ở con đường hay khúc sông nào thường xuyên xảy ra tai nạn, có tính chất lặp lại nhiều lần thì người ta mới lập miếu thờ. Vì người ta cho rằng, do người chết trước đó không được đầu thai, trở nên cô đơn, vất vưởng nên mới bắt người, làm người chết thường xuyên.
Một biến thể khác của tục cúng cô hồn là cúng tam tai. Theo đó thì những người bị xui rủi, những người ốm đau bệnh tật mà thuốc thang không hết thì người ta cho là bị âm binh quở, bị cô hồn phá vì vậy phải cúng để giải nạn. Việc cúng này có thể do chính tay người bị xui rủi, bệnh tật cúng hoặc cũng có thể nhờ người thân của mình cúng. Cúng tam tai có hai dạng: cúng trên bờ và cúng dưới nước. Cũng trên bờ phần lớn là dành cho những người ở thành thị. Giờ cúng thường là buổi tối. Địa điểm cúng cần xem phong thủy và nhất định phải là ngã ba, ngã tư đường. Thức cúng gồm có trái trứng vịt luộc, miếng thịt luộc và con tôm luộc, gọi là tam sanh, đôi khi có thêm một ít tiền lẻ, giấy tiền vàng bạc và ba cây nhang. Khi định giờ cúng xong, người ta đến địa điểm đã được khảo sát, sau đó bày thức cúng lên một tàu lá chuối, rồi thắp nhang, khấn vái, cầu mong tai qua nạn khỏi, rồi lấy những đồng tiền lẻ rải xung quanh; xem như bỏ đi những điều xui xẻo, rồi ra về, không được đem bất cứ thứ gì về, nếu không sẽ không có tác dụng.
Ở nông thôn, cúng tam tai thường có bè chuối thả trôi sông. Cúng ở gia đình, bè chuối thường làm rất nhỏ. Người ta lấy thân của cây chuối chặt ra, ghép lại thành chiếc bè, trên đó có trang trí cờ, hoa như bè thật. Trên bè có bộ tam sanh và ít đồng bạc lẻ. Chiếc bè được đặt cạnh bờ sông, sau khi các nghi thức cúng vái xong thì người ta thả bè xuống nước. Bè trôi càng nhanh, càng xa thì người bệnh mau hết bệnh. Vì vậy, hễ dòng nước đưa chiếc bè này tắp vào bờ cầu nhà ai thì người ta lập tức phát nước cho nó trôi đi nơi khác. Ai cũng sợ bệnh tật và những điều không may sẽ vào nhà mình.
Tục cúng cô hồn ở Nam Bộ đã có từ lâu đời, theo bước chân của những đoàn quân Nam tiến. Tục lệ này giúp người ta có niềm tin vững chắc trong đời sống tâm linh của mình, từ đó có thêm sức mạnh tinh thần để mà vui sống, thể hiện nét đẹp nhân văn trong đời sống văn hóa của cư dân vùng này. Đồng thời nó cũng có tác dụng khuyến thiện trừ ác. Cho nên, những ai sống không tốt với xóm làng, lưu manh, ngang ngược… người đời sẽ gọi họ là đồ cô hồn sống, những thứ âm binh.
* Cách Loan Báo Tin Mừng cho những người theo các tín ngưỡng dân gian.
Tự bản chất, con người không thể vô thần, nhưng luôn khao khát bất tử, tin có một sự tồn tại của thế giới siêu hình và tin rằng có một đời sau khi thân xác chết đi.
Lại nữa, con người trong sâu thẳm cõi lòng mình không thể vô tôn giáo, nên họ muốn có một Đấng nào đo để thờ, một chỗ để cầu xin hay một sự nương ẩn khỏi cô đơn tâm linh. Vì thế, trong biết bao tín ngưỡng, chính là những tín ngưỡng nào đã có cơ may gặp họ trước mà thôi.
Vậy nên, khi muốn Loan Báo Tin Mừng cho những người này, chúng ta phải làm sao giới thiệu được một Đấng Tối Cao vượt lên trên những điều mà họ đã thờ, một con đường chắc chắn hơn để cứu rỗi linh hồn họ, và một sự đáp ứng tinh thần cho những sinh hoạt cộng đồng mang tính thượng đẳng hơn những nghi lễ mà họ đang có.
III. NHỮNG KHÓ KHĂN CHO NGƯỜI TRUYỀN GIÁO TRƯỚC CHẾ ĐỘ CẦM QUYỀN TẠI VIỆT NAM
Thực tế, vô thần không thể đứng chung với người có đức tin, nên cộng sản VN tìm cách làm chủ tôn giáo, biến người theo đạo thành tay sai để phá hoại, nhưng phá hoại cách tinh vi, họ áp dụng giữa trên ý thức hệ chủ trương “tôn giáo là thuốc mê quần chúng”. Cộng sản vô thần cho rằng, nghèo đói và những gì vượt khỏi khả năng nên mới nghĩ ra thần linh để cầu cúng, rồi ảo tạo ra thần linh để tự an ủi mình, đến khi có được cái ăn cái mặc đầy đủ thì hết tin và tôn giáo sẽ biến mất. Từ đó họ rất khôn ngoan sử dụng cách loại trừ tôn giáo mang “tính hệ thống”. Tính hệ thống của cộng sản trước hết là họ áp dụng cách ru ngủ để làm người ta lơ là và quên đi..
Chủ nghĩa vô thần bách hại tôn giáo mang tính hệ thống có thể nói là thượng sách của họ, họ triệt hạ tôn giáo cách tinh vi, biến tôn giáo thành một nhóm và phải lệ thuộc họ, xin phép họ.
Những hình thức bên ngoài mang tính nhỏ lẻ như là chống đối ra mặt chỗ này chỗ kia, lên xúc phạm nơi thánh thiêng, đập tượng thánh, nhục mạ các linh mục tu sĩ, bạo động… là “hạ sách”, là ấu trĩ, là kém văn hóa, là thiếu kiến thức, là hành xử kém. Và ở cấp trên của những kẻ gây ra hạ sách ấy không hề muốn, vì làm như vậy sẽ tổn hại về mặt ngoại giao với các nước, và quan trọng hơn chỉ làm cho đức tin lớn mạnh và gia tăng người theo đạo. Bằng chứng lịch sử cho thấy: Càng bị bách hại, đạo càng gia tăng nhanh. Khi càng bắt bớ, chèn ép, thì sức mạnh càng bật tung lên, và những người dám chịu đựng và can đảm chết sẽ trở thành gương sống cho người khác. Cộng sản họ thấy rõ điều đó, và họ không muốn đi vào vết xe đổ của quá khứ, mà là bách hại cách tinh vi là bách hại mang tính hệ thống.
Theo triết gia Voltaire: “Ngay cả khi các ông không tin mà muốn cai trị dân, thì hãy ru ngủ dân để chúng trở thành như những con cừu các ông sẽ làm chủ được, có nghĩa là “muốn phá nó thì đừng chống nó và ru ngủ nó, đến một mức nào đó nó chết mà nó cũng không biết”. Chính sách này làm con người rất dễ bị mắc mưu, tựa như một con vật khó thuần phục cỡ nào, mà ta đưa về nuôi nó và cho nó ăn thì nó sẽ theo ta. CSVN muốn phá tôn giáo bằng cách cho tôn giáo có vẻ tự do như cuộc sống ở bên Âu Tây, cho đến một lúc nào đó người ta không đi nhà thờ nữa.
Chung quy lại, bách hại tôn giáo theo tính hệ thống của CSVN áp dụng ít nhất theo các cách sau:
– Thành công đầu tiên của các nước CS là can thiệp được vào việc bổ nhiệm Giám mục, CS không có quyền chọn, nhưng việc Tòa thánh muốn bổ nhiệm Giám mục phải hỏi ý kiến họ và họ có đồng ý hay không. Và cũng vì thế mà có thể nói: “Giám mục được bổ nhiệm, ngoài đẹp lòng Chúa còn đẹp mắt CS”.
– Chủ trương “nắm được tướng thì quân phải phục”. Các chức sắc trong tôn giáo nếu “biết im lặng”, thỏa hiệp, không chống đối ra mặt, thì dễ thăng tiến và thăng tiến rất nhanh. Những “vị im lặng” đa phần không phải không biết, nhưng có lẽ do “tham ghế mê quyền” và tư lợi nên quy phục CS, thậm chí làm tay sai cho họ.
– “An ninh chìm” ngầm theo dõi các tu sĩ, linh mục, giám mục ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, họ có cả một sổ sách ghi lại những khuyết điểm của các vị ấy, đặc biệt là những sai phạm về luân lý. Đợi khi lên chức, cai quản hay truyền giáo ở đâu (họ rất tạo điều kiện cho thăng chức vì họ biết sẽ trở thành con cờ của họ), họ nắm đàng chuôi, nên họ chỉ nhắc nhẹ riêng là răm rắp nghe theo. Điều này các “đấng” bị CS nắm thóp đầu chuôi không ít.
– Cái nguy hiểm nhất là hệ lụy mang tính dây chuyền, CS tác động vị có chức quyền cao mà đã “dính chàm” để can thiệp bề dưới phải vâng lời “nhà nước”.
– Nhiều vị dễ mắc mưu CSVN nhất là sự cho phép và hứa hẹn. Các cha sở hay các tu sĩ định làm một công trình hay tổ chức một việc gì đó, phía thế quyền cho phép và hứa hẹn, nhưng đề nghị ngày khởi công hay các chương trình làm thêm các băng rôn mang tính ủng hộ nhà nước và đặt tượng Cụ Hồ vào nơi thánh hay sân khấu, hoặc cho thêm một tiết mục văn nghệ nào đó về đảng và nhà nước. Vấn đề này, có đấng mắc mưu vì nhầm lẫn đó là hội nhập văn hóa hoặc đối thoại liên tôn, cũng có đấng nghe theo CS để được việc.
– Có những khi CS còn tìm cách len lỏi vào một cách trơ trẽn, như vụ một Giáo hạt ở Miền Trung, an ninh huyện mời các cha trong hạt giao lưu bóng đá. Khi chụp hình lưu niệm, họ bí mật giăng tấm phông nền phía sau với biểu ngữ ủng hộ đường lối của đảng. Sau này chúng đem hình lên mạng để tuyên truyền rồi các cha mới vỡ lẽ ra. Hay ở một xứ đạo kia, nhà cầm quyền xã tổ chức mít tinh mừng khánh thành Hội Trường xã, đã mời vị linh mục xứ đạo trong xã đó đem ca đoàn đến tham gia một tiết mục mừng đảng, thậm chí khuyến khích ai đăng ký lên hát được thưởng tiền. Cha xứ đã nhận lời và rồi chuyện gì sẽ xảy ra đã xảy ra.
– Chính sách “ném đá giấu tay” cũng được nhà cầm quyền áp dụng. Họ thuê mướn những “nhóm quần chúng tự phát” để sách nhiễu phá phách những nơi mà có vị phụ trách giáo xứ hay cộng đoàn dòng tu không thỏa hiệp với CS.
– Đánh tráo khái niệm gây nhầm lẫn tai hại, ví dụ CS dùng mỹ từ “tốt đời đẹp đạo” trong các lời kêu gọi cầu chúc trong các dịp lễ hay dịp tết và dịp kỷ niệm. Đâu biết rằng, tốt là bản chất, đẹp là bề ngoài, chúng ngầm ý cho rằng đạo chỉ là cái mã bề ngoài. Một cô gái đẹp chưa chắc gì cô ta đã tốt…
– Lợi dụng cái ủy ban “được gọi là đoàn kết” đội lốt Công Giáo (do CS lập ra), nhưng thực sự thay vì “đoàn kết” thì CS dùng chính “đàn két lờ mờ tờ sờ” trong đó để gây “chia rẽ” dân Chúa.
– “Giáo dục nhồi sọ”, luận điệu xuyên tạc về tôn giáo gieo vào thế hệ trẻ (như nói Đạo Công Giáo là tiếp tay với thực dân bán nước). Cấm tôn giáo lập các trường từ tiểu học trở lên (chỉ cho mở lớp mẫu giáo)…
– Âm thầm bắt lén những ai có chính kiến, sau đó mới khép cho một cái tội “phản động”.
Ủng hộ các doanh nghiệp xây dựng những tòa nhà, lắp đặt những pano quảng cáo che khuất cơ sở tôn gió, hoặc phát hình ảnh hay âm thanh làm chia trí nhiễu loạn trong khi các tôn giáo đang cử hành việc phụng tự.
Chính sách “vừa đấm vừa xoa” nhưng dằn mặt thì ít mà ru ngủ thì nhiều xem ra nhà cầm quyền CS đang rất thành công tại Việt Nam lúc này, vì làm cho mọi thành phần tín hữu mất cảnh giác, cái sự no đủ và yên bình giả tạo đang làm cho người ta quên Chúa và đẩy tín hữu xa dần nhà thờ.
[1] Ích lợi thực hành Bát chánh đạo:
1. Có kiến thức chân chánh không bị mê hoặc và lôi cuốn bởi ngọai đạo tà giáo.
2. Suy nghĩ chơn chánh không bị sa vào lỗi lầm đen tối.
3. Lời nói chân chánh lợi mình lợi người.
4. Hành động chân chánh có ích cho mình và không làm thương tổn người khác.
5. Đời sống chân chánh không bị khinh rẽ, chê bai, được mọi người mến mộ, kính trọng.
6. Siêng năng chơn chánh sẽ thu được nhiều kết quả.
7. Nhớ nghĩ chân chánh giải tỏa được sự nuối tiếc.
8. Thiền định chơn chánh trí huệ phát triển và Phật quả viên thành.
[2] Thập nhị nhân duyên:
Vô minh: Vô minh là không sáng suốt, là mề lầm, không nhận được bản tính duyên khởi chân thật. Chính vì không biết giữa thân tâm và cảnh giới, phát khởi ra những tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng.
Hành: Hành, chính là cái tâm niệm sinh diệt chuyển biến không ngừng ấy, nó làm cho chúng sinh nhận lầm có cái tâm riêng, cái ta riêng của mình, chủ trương gây các nghiệp, rồi về sau chịu quả báo.
Thức: Tâm niệm sinh diệt tiếp tục ấy, theo nghiệp báo duyên ra cái thức tâm của mỗi đời, chịu cái thân và cái cảnh của loài này hoặc loài khác.
Danh sắc: Các thức theo nghiệp báo duyên sinh ra danh sắc. Sắc, bao gồm những cái có hình tướng, như thân và cảnh; Danh, bao gồm những cái không có hình tướng, như cái sự hay biết, nói một cách khác, là thức tâm thuộc nghiệp nào, thì hiện ra thâm tâm và cảnh giới của nghiệp ấy.
Lục nhập: Thân tâm đối với cảnh giới thì duyên khởi ra các sự lãnh nạp nơi 6 giác quan, nhãn căn lãnh nạp sắc trần, nhĩ căn lãnh nạp thanh trần, tỷ căn lãnh nạp hương trần, thiệt căn lãnh nạp vị trần, thân căn lãnh nạp xúc trần và ý căn lãnh nạp pháp trần.
Xúc: Do những lãnh nạp như thế, mà các trần ảnh hưởng đến tâm hay biết sinh ra quan hệ với nhau, nên gọi là xúc.
Thọ: Do những quan hệ giữa tâm và cảnh như thế, nên sinh ra các thọ là khổ thọ, lạc thọ, hỷ thọ, ưu thọ và xả thọ.
Ái: Do các thọ đó, mà sinh lòng ưa ghét, đối với lạc thọ, hỷ thọ thì ưa, đối với khổ thọ, ưu thọ thì ghét và đã có ưa ghét thì tâm gắn bó với thân, với cảnh, hơn bao giờ hết.
Thủ: Do tâm gắn bó với thân, với cảnh nên không thấy được sự thật như huyễn, như hóa, mà còn kết hợp được những ảnh tượng rời rạc đã nhận được nơi hiện tại, thành những sự tướng có định, rồi từ đó chấp mọi sự vật đều có thật, sự chấp trước như thế, gọi là thủ.
Hữu: Do tâm chấp trước, nên những sự vật như huyễn như hóa lại biến thành thật có, có thân, có cảnh, có người, có ta, có gây nghiệp, có chịu báo, có sống và có chết, cái có như thế, tức là hữu.
Sinh: Có sống, tức là có sinh, nói một cách khác, là do không rõ đạo lý duyên khởi như huyễn, không có tự tánh, nên nhận lầm thật có sinh sống.
Lão tử: Lão tử là già rồi chết. Do có sinh sống, nên có già, rồi có chết.
[3] Tu tiên có hai cách: nội tu và ngoại dưỡng. Ngoại dưỡng là dùng thuốc trường sinh, gọi là kim đan (hay linh đan, thu được trong lò bằng cách luyện từ một số khoáng chất như thần sa, hùng hoàng, từ thạch, vàng). Nội tu là rèn luyện thân thể, dùng các phép tịch cốc (nhịn ăn), dưỡng sinh, khí công… lấy thân mình làm lò luyện, luyện tinh thành khí, luyện khí thành thần, luyện thần trở về hư vô (Đạo). Con người cũng như vạn vật là từ “Đạo” mà sinh ra; cho nên tu luyện là trở về với “Đạo”.
[4] Tới đầu năm Đinh Mão (1927), ngài Ngô Văn Chiêu, môn đồ đầu tiên của Đức Chí tôn và từng là Đức Giáo tông dự bị, nói cho mọi người biết rằng Ngài đã làm xong nhiệm vụ trong Cơ Phổ độ. Từ nay, Ngài sẽ đảm trách một sứ mạng quan trọng khác, đó là lập Cơ Tuyển mộ Chiếu Minh Tam thanh Vô vi, gọi tắt là Chiếu Minh Vô vi. Ngài đổi chữ lót trong tên của mình thành chữ Minh; từ đây gọi Ngài là Đức Ngô Minh Chiêu, chuyên lo tu đan, tịnh luyện. Cùng theo phái Vô vi của Ngài Chiêu, có ba Ngài Võ Văn Sang, Nguyễn Văn Hoài và Lý Trọng Quí; nhưng về phương diện tín ngưỡng, Ngài Chiêu vẫn tôn thờ Đức Ngọc hoàng Thượng đế.
Sau sự kiện vừa kể, Đức Chí tôn phải chuyển pháp, giao chức Giáo tông qua cho Đức Lý Thái Bạch Nhất trấn Oai nghiêm kiêm nhiệm. Trong Đạo Nghị định thứ nhì ngày 3 tháng 10 năm Canh Ngọ (1930), Đức Lý Giáo tông ban cho Đầu sư Thượng Trung Nhựt (Ngài Lê Văn Trung) cầm Quyền Giáo tông tại thế để điều hành cơ Đạo hữu hình, còn nhiệm vụ Giáo tông vô vi vẫn do Đức Lý Giáo tông nắm giữ. Kể từ đó. đạo Cao Đài chỉ có một Giáo tông vô vi là Đức Lý Thái Bạch, và tại thế thì có Quyền Giáo tông. st