CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm A
CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA
Lời Chúa: Cv 2, 42-47; 1Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31
——–
-
Yêu Là Thế (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Món Quà Bình An (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
-
Xin thương xót chúng con và toàn thế giới (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
-
Từ ngục tối bước ra (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
-
Phúc cho ai không thấy mà tin (Jorathe Nắng Tím)
-
Chúa vẫn ngay bên (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
-
Bình an cho anh em (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
-
Lòng Thương Xót (Lm. Thái Nguyên)
-
Lòng thương xót xua tan sự sợ hãi (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
-
Các vết sẹo (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
-
Chứng thực (Trầm Thiên Thu)
-
Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 2 Phục sinh_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
-
Bình an của Đấng Phục sinh (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
-
Suy niệm tình yêu cứu độ (Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD)
-
Đại dịch Covid trở thành đại lễ Phục sinh (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
-
Đặc tính của đức tin (P.Trần Đình Phan Tiến)
1. Đấng phục sinh đang ở giữa chúng ta (Gm Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Gặp gỡ Đức Kitô Phục sinh (Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt)
3. Lòng Thương xót hàn gắn đỗ vỡ (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
4. Phúc cho ai không thấy mà tin (Lm. Tôma Nguyễn Hoàng Phượng)
5. Làm chứng cho Đấng Phục sinh (Lm. GB. Trần Văn Hào, SDB)
6. Chớ cứng lòng (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Con đường của lòng tin là con đường của lòng mến (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
8. Mầu nhiệm Thương xót (Trầm Thiên Thu)
9. Từ vết thương lòng đến suối nguồn thương xót (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh)
10. Chúa là Đấng Xót Thương (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
11. Trao ban Thần Khí (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
12. Cộng đoàn và đức tin (Lm. Trịnh Ngọc Danh)
13. Đức tin: Lời đáp trả thích đáng (JM. Lam Thy, ĐVD)
14. Hạnh ngộ (AM. Trần Bình An)
15. Tử nạn và Phục sinh là dấu chỉ của Lòng Thương xót (P. Trần Đình Phan Tiến)
16. Còn gì để nói (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
17. Bí tích của Lòng Thương xót (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
18. Tin là hồng ân (Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh)
19. Đức tin (Lm. Trần Việt Hùng)
20. Hãy đụng chạm tới lòng Chúa thương xót (Lm. Gioan Nguyễn văn Ty, SDB)
21. Suy niệm Chúa Nhật II Phục sinh (Lm. Anthony Trung Thành)
22. Cùng Chúa Phục sinh mang lại niềm tin yêu cho tha nhân (Lm. Đan Vinh)
23. Phúc cho ai không thấy mà tin- (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
24. Hiệp thông để đón nhận Lòng thương xót (Lm. Giuse Nguyễn)
25. Chúa Nhật 2 Phục sinh_A (Lm. Antôn, giáo xứ Giuse, Tulsa)
YÊU LÀ THẾ
Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc
Biểu tượng của tình yêu là trái tim, trái táo, việc cửa đóng then cài, “tố cáo” bạn đang hoang mang, sợ hãi. Trong cuộc sống hiện đại, nụ cười giúp ta giải quyết nhiều vấn đề, song im lặng cũng giúp ta xa tránh vô số vấn đề rắc rối. Cứ sự thường, chỉ những ai trải qua đau khổ tột cùng, mới cảm nhận thế nào là hạnh phúc tột cùng. Thuốc duy nhất xoa dịu nỗi khổ đau, vẫn phải là yêu và thương, điều làm người ta tự tin là cảm nhận mình được khích lệ, được ủng hộ. Rõ ràng ta không kiểm soát được những gì sắp xảy ra với bản thân, nhưng ta hoàn toàn kiểm soát được suy nghĩ và thái độ của mình. Trải qua nhiều trái ngang, một số bạn trẻ nói rằng: thất tình mới biết yêu là khổ, say tình mới biết khổ vì yêu ! Khi chưa yêu, chưa cảm nhận thế nào là hạnh phúc, khi yêu rồi, mới biết hạnh phúc là sống đơn sơ trong trắng, là lúc chưa nặng tình với ai !
Yêu là chết trong lòng một tí, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ? (Xuân diệu). Yêu có phải là mở toang cánh cửa, nhìn mọi người và vui cười hô hố ? Đóng cửa then cài như các học trò Thầy Giêsu, có phải là yêu không ? Trang Tin-mừng hôm nay cho biết: “những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái”. Ai cũng biết nói: việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Ai cũng bảo hình thức bên ngoài không quan trọng, vẻ đẹp và sự mạnh mẽ nơi tâm hồn mới quý, đụng chạm thực tế thì lại nói: đỉa bám chân ai người ấy gỡ, quan tâm gì đến nét đẹp tâm hồn ? Hiểu theo nghĩa tích cực, các môn đệ đóng cửa để cầu nguyện là hợp lý, ở cùng nhau để nói lên tình đoàn kết; sợ bị bắt bớ, hành hạ, sợ bị làm khổ, cũng đúng thôi, vì các ông là người, là học trò, chưa phải là thầy !
Yêu là không phải nói lời hối tiếc ! Yêu là mau chóng phải chứng minh. Thầy Giêsu yêu các môn đệ, rửa chân cho các ông, yêu đến độ biết kẻ sẽ bán Thầy, chối Thầy, bỏ Thầy, nhưng vẫn yêu vẫn thương ! Yêu như người ta nói: nước mắt đàn ông không tuôn thành giòng, nước mắt đàn ông, chôn sâu trong lòng ! Yêu là cảm nhận được người mình yêu đang cần gì, đang mong gì, cả những điều thiêng liêng nhất ! Dù các môn đệ đóng cửa nhà, hay đóng cửa lòng, không muốn tiếp xúc với, Đấng phục sinh vẫn xuất hiện, vẫn mở lời cần thiết, chào chúc bình an “cho các học trò”. Yêu là thế, yêu là nghĩ đến người mình yêu trước khi ngủ, và nghĩ về người yêu đầu tiên khi thức giấc. Yêu là chứng minh: lời nói đúng chỗ sẽ làm giảm căng thẳng, sợ hãi, yêu là tỏ cho mọi người cùng cảm nhận “hành động bác ái”, chính là dấu hiệu của tình yêu bất tử.
Xuân Diệu vô cùng lãng mạn với lời tự tình: đố ai định nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều, gặp em gái nhỏ, thế là yêu ! Đấng phục sinh, vượt lên trên tình yêu đôi lứa: có nghĩa gì đâu một buổi chiều, cửa đóng then cài, tất cả chỉ là “chết nhát”, ấy vậy, yêu hoài yêu mãi, và còn minh chứng cho các ông “chữ tình” nơi Thầy chẳng nhạt phai. Yêu là thế, là bén nhạy trước người mình yêu: mở lòng, mở trí, mở trái tim, thay vào đó là đóng cửa sợ hãi, là xoá tan nghi ngờ, tô đậm bình an và hạnh phúc cho người mình yêu. Tình là gì, tình là chi, yêu là chết đi, yêu là không nói lời hối tiếc, yêu là không cân đo đong đếm, mà làm sáng tỏ và làm phong phú chữ tình, chữ yêu, nên một cung bậc mới. “Bình an cho các con, như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con, các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”.
Yêu là thế, là chứng minh cho người mình yêu: nếu bạn vấp ngã, nếu mắt tâm hồn bạn bị phủ kín nghi nan, điều đó chưa chắc là bạn đã sai đường, hãy tự tin, hãy cố gắng đứng dậy. Đấng phục sinh xuất hiện lần kế tiếp, trước sự thách thức nghi ngờ của một học trò: “hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh, hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn, chớ cúng lòng, nhưng hãy tin”. Yêu là thế, tình là thế, Đấng phục sinh vượt lên trên tất cả những gì là bất nhân, bất nghĩa, “thế nhân” chỉ có thể tương đối hoá bằng cụm từ: “tất cả là hồng ân”. Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta biết: hãy sợ con dê húc phía trước, cẩn thận con ngựa có thể đá phía sau, nhưng kẻ ngu ngốc phải đề phòng tứ phía. Toma hẳn đã ý thức ông không phải là loài vật, ông không là kẻ ngu ngốc, ông chính là người học trò được thương yêu: “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Yêu là thế, yêu là lời nói việc làm không bất nhất: “lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi, nguyện theo ý Cha, đừng theo ý Con”. Yêu là thế, là giúp cho người mình yêu hiểu, tin, và sống điều mình tin: “phải qua đau khổ thập giá mới tới vinh quang phục sinh. Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão chối bỏ, giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vâng, vì “con đã xem thấy Thầy nên con đã tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”. Đấng phục sinh vẫn đang nói với từng tâm hồn chúng ta, “bình an cho các con, nói thế rồi Ngài thổi hơi trên các ông và phán: như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con …”. Đừng ai cầu xin cho gánh nặng nhẹ vơi, đừng ai xin ơn biết né tránh khổ đau thập giá, nhưng hãy xin cho đủ tình yêu Chúa, xin cho đôi vai mình vững chắc. Xin Đấng phục sinh hiện diện, đỡ nâng chúng con, vì chưng: đủ đức tài thì bớt luỵ, đủ sức mạnh và tình yêu Chúa, niềm tin sẽ dẫn tới hạnh phúc. Amen.
MÓN QUÀ BÌNH AN
Thiên San, MTG. Thủ Đức
Hôm ấy, khi Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma không có mặt. Nghe anh em kể lại, ông nói: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin” (Ga 20,25). Khoảng tám ngày sau, Đức Giêsu Phục sinh tiếp tục hiện ra với các môn đệ, Tôma cũng có mặt. Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27); đoạn Người nói tiếp: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Như vậy, trong tình yêu của Chúa, chẳng một ai bị bỏ quên.
Sau khi Thầy chết nhục nhã trên thánh giá, các môn đệ mất hết hy vọng. Phải chăng các cửa đều đóng kín hay tâm hồn các ông đang khép lại, co rúm, không thấy một tia sáng nào? Tin Mừng nói rõ, vì họ sợ người Do Thái. Không sợ sao được khi Thầy chẳng còn, lang thang ngoài đường, tạt qua chỗ này chỗ kia chẳng may bị bắt giống như Thầy thì khổ. Dường như tất cả các ông cùng tụ tập lại tại một nơi. Đó là sức mạnh cuối cùng các ông có thể làm được. Trong cái khổ, cái khó, hình như các ông gần nhau hơn? Giữa sự u tối của căn phòng, ẩm thấp, chật chội, tầm hồn các ông như đang héo úa. Hôm ấy, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, đang khi các cửa đều đóng kín. Ngài phá tan bầu khí ảm đảm, thổi luồng khí tươi mát, bình an tràn ngập cả căn phòng, tràn ngập tâm hồn các ông. Bình an là món quà đầu tiên Đức Giêsu dành tặng cho các tông đồ.
Đức Giêsu Phục sinh đến với các môn đệ, hối hả trao ban bình an cho các ông, cho họ xem tay, chân và cạnh sườn của Người. Người ban Thánh Thần cho các ông, sai các ông đi, trao ban bình an và tha thứ. Các môn đệ rất đối vui mừng vì được gặp lại Chúa. Như cây rừng sau một mùa khô cháy được tưới mát, các môn đệ như được hồi sinh. Tiếc là hôm ấy Tôma không có mặt. Phải chăng vì Tôma không có mặt nên Đức Giêsu Phục sinh quyết định hiện ra với các môn đệ lần nữa? Lần hiện ra này, Tôma như được Đấng Phục sinh mở mắt, mở tâm hồn. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Đức Giêsu không chỉ dành sự ưu ái cho Tôma khi hiện ra với ông mà còn nhờ trường hợp của ông mà củng cố đức tin cho chúng ta, là thế hệ của “những ai không thấy mà tin”.
Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm tất cả. Đối với Ngài, không một ai bị lãng quên. Là thế hệ của “những ai không thấy mà tin”, chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc. “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Phúc vì trải qua dọc dài lịch sử, qua biết bao thăng trầm, thử thách, chúng ta vẫn được diễm phúc nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Phúc vì nhận ra món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng là Đức Giêsu. Cái phúc ấy, tự ta không thể có được nhưng chính nhờ lòng nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa. Chính Ngài đã gõ cửa lòng ta, mời gọi ta đón nhận tình yêu. Với đôi mắt xác thịt, chúng ta chẳng thể thấy gì nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể thấy và tin những gì không thể thấy.
Nhiều người trong chúng ta, khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta đã không ít lần kêu trách, Chúa, nghi ngờ sự hiện diện của Ngài. Đức Giêsu phục sinh hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn luôn đồng hành cùng chúng ta. Ngài không hiện ra cụ thể như đã hiện ra với các tông đồ ngày xưa, nhưng Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời của Ngài. Để tiếp tục bước đi trong tình thương của Chúa, được trở thành người có phúc, chúng ta đừng bao giờ quên chạy đến với Thiên Chúa. Chỉ khi chăm chú và ưu tiên tìm kiếm và thực thi ý Chúa, chúng ta mới thực sự cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài. Ngài không chỉ mời gọi ta thực thi ý Ngài nhưng vẫn luôn lắng nghe, đón nhận và yêu thương chúng ta như chúng ta là. Như xưa Chúa đã kêu mời các môn đệ ra đi trao ban bình an, yêu thương và tha thứ, nay Người cũng tiếp tục mời gọi và sai chúng ta thực hiện sứ mạng đó. Đong đầy yêu thương, bình an và lòng thương xót của Đấng Phục sinh cho tất cả mọi người, mọi nơi ta hiện diện. Bởi không ai nằm ngoài vùng “phủ sóng” yêu thương của Chúa.
XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON VÀ TOÀN THẾ GIỚI
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Xin thương xót chúng con và toàn thế giới! Lời kinh được lặp đi lặp lại, như tiếng kêu cứu khẩn thiết lúc đang gặp gian nan. Chưa bao giờ, lời kinh cầu nguyện Lòng Thương xót lại có ý nghĩa như những ngày này, khi mà thế giới đang đau khổ chứng kiến dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán (COVID-19) đang tàn phá nhân loại từng ngày. Các tôn giáo đều cầu nguyện cho dịch bệnh sớm bị đẩy lui. Mọi người đều mong cho cuộc sống sớm trở lại bình thường. Những lúc dịch bệnh phải cách ly, mới thấy những điều bình dị của đời sống thường ngày thật đáng trân quý. Người ta ước mong có ngày lại được đi dạo ngoài phố, được mời bạn bè mừng sinh nhật hay tân gia, được đi thăm nhau giao lưu giữa tỉnh nọ với tỉnh kia, được vào Nam ra Bắc dễ dàng bằng các phương tiện giao thông khác nhau. Những điều này quá đỗi bình thường khi chưa có dịch, nhưng nay lại là điều bị cấm để tránh dịch bệnh lây lan.
Chúa nhật thứ hai Phục sinh là Đại lễ kính Lòng Thương xót. Đây là sáng kiến và sự cổ võ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thế giới đang cần đến lòng thương xót của Chúa để được chữa lành. Không chỉ chữa lành khỏi dịch bệnh COVID-10, nhân loại còn cần được chữa lành những căn bệnh trầm kha khác: dửng dưng vô cảm với Thượng đế và với tha nhân; sa đọa luân thường đạo lý; hôn nhân đồng tính; phá thai; thờ ngẫu thần; kiêu ngạo cho rằng nền kỹ thuật hiện đại có thể thay Thiên Chúa. Vâng, một nhân loại đang bị tổn thương nghiêm trọng cần được chữa lành.
Chúng ta vừa tưởng niệm cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu. Cái chết và sự phục sinh của Người là nguồn mạch ơn cứu độ cho trần gian. Chúa Giêsu cũng là vị Lương Y thần thiêng. Trong lúc rảo khắp xứ Galilêa để rao giảng Tin Mừng, Người đã chữa lành biết bao người đau ốm đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí một vào trường hợp đã chết, Chúa đã cho sống lại. Chính Người đã sống lại vinh quang, ra khỏi nấm mồ tối để chiếu ánh sáng hy vọng cho con người.
Dưới cái nhìn trần gian, người ta nghĩ rằng Chúa đã chết là hết mọi chuyện. Nói đến một người đã chết mà sống lại, người ta coi như chuyện tầm phào. Điều này chẳng có gì mới, vì ngay như ông Tôma, một trong Mười hai tông đồ, cũng chẳng tin Thày mình đã sống lại. Vì vậy, ông thách thức và tìm những bằng cớ cụ thể nhãn tiền thì ông mới tin. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa chấp nhận những điều kiện thách thức ấy. Khi Đấng Phục sinh hiện đến, ông Tôma chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.
Ngày hôm nay, Giáo Hội đứng trước một thách đố lớn khi rao giảng Đấng Phục sinh. Bởi lẽ trong con mắt của đại đa số những người đương thời hôm nay, trong đó có cả những tín hữu, đó là một điều khó chấp nhận. Câu chuyện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết có nguy cơ bị coi như một câu chuyện cổ tích xa vời. Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình. Như thế, tin vào Chúa Phục sinh đòi hỏi phải có một cái nhìn vượt qua những điều khả giác để vươn tới một thực tại siêu nhiên, đồng thời xác tín vào quyền năng của Thiên Chúa. Đối với Ngài, “không có gì mà Ngài không thể làm được”. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II). Đức tin đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Đây không phải bình an của thế gian, nhưng là bình an do chính Chúa Phục sinh ban tặng.
Người thời nay đang đi tìm những chứng từ để tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Chứng từ ấy, có thể tìm thấy nơi những cộng đoàn đức tin. Cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem đã làm nên những chứng từ rất sống động về sự hiện diện của Đấng Phục sinh: đó là sự hiệp nhất, chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, sốt sắng cầu nguyện và quảng đại thực hiện đức bác ái đối với anh em đồng đạo cũng như những người chưa cùng niềm tin (Bài đọc I).
Với một lối giải thích khác về chữ nghĩa so với tác giả Sách Tông đồ Công vụ, nhưng mang cùng một nội dung, trong Tông thư “Dung mạo Lòng Thương xót – Misericordiae vultus”, công bố ngày 11-4-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “Tất cả mọi hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng và không một chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại vắng bóng lòng thương xót” (số 10). Ngài cũng nói đến sứ mạng của Giáo Hội là loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa và ngài nhắn nhủ Giáo Hội hãy đảm nhận trách vụ “vui mừng loan báo sự tha thứ”, “là sức mạnh làm tái sinh vào cuộc sống mới và mang lại can đảm để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng” (số 12). Quả thật, khi Giáo Hội thực hiện được lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trên đây, thì Giáo Hội trở nên hình ảnh sống động của Đấng Phục sinh, giống như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thực hành lòng thương xót, chính là một chứng từ khả tín của cộng đoàn Kitô hữu. Nhờ đó mà những người đồng bào của chúng ta nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa.
“Phúc cho ai không thấy mà tin!”. Vâng, giữa thảm họa đại dịch COVID-19 này, càng cần hơn nữa Đức tin để chúng ta đáng được Chúa xót thương, can thiệp cứu vớt. Trong ngày Đại lễ Kính Lòng Thương xót của Chúa, chúng ta hãy cùng đồng thanh kêu xin: Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới!
Lm Giuse hoàng Kim Toan
Thời gian cách ly chỉ là một khía cạnh nhỏ của tù ngục đã cảm thấy nặng nề, khó chịu. Ai cũng mong muốn thoát ra nhanh. Trong ngục tối, một tình cảnh hoàn toàn nằm trong sự chết nhiều mặt, lòng khát khao bước ra vùng ánh sáng, chân lý càng rạo rực, cháy bỏng. Suy niệm dựa trên chia sẻ của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger trong cuốn sách “Đấng chịu đâm thâu”.
Kinh nghiệm về ngục tối cho chúng ta thấy đó là tình trạng mất tự do, không còn được gặp gỡ người khác, làm những việc bình thường mình mong muốn. Hai tình trạng đó cũng chưa nói hết được tình trạng bị nhốt trong ngục tối. Một ngục tù thật sự không có ánh sáng, mất hẳn một chiều kích thân phận người sinh ra trong trời đất, chỉ còn đất trong vùng tối tăm mà thiếu ánh sáng của trời.
Trong ngục tối của sự chết, cũng là một ngục tối của tâm hồn tội lỗi. Không còn nhìn thấy người chung quanh, chỉ thấy chính mình trong sự tối tăm của lòng ích kỷ. Bóng tối không chỉ nơi mình mà còn ảnh hưởng tới người khác, bởi sự thối rữa của sự chết.
Ngục tối của u minh. Sự chết vì thiếu hiểu biết là sự chết không đáng có. Một sự tối của tâm hồn chai cứng, không đón nhận điều mới trong cuộc sống hay một nhận thức mới về những điều con người ngày càng khám phá ra. Sự tối tăm của những ý thức định kiến về người khác, không thay đổi, không nhận ra điều mới, sự khác đi của người anh chị em, trong sự sống mới, như trường hợp bà Maria gặp Chúa phục sinh và không nhận ra Người đang hỏi bà: “bà tìm ai?” (Ga 20, 15).
Ngục tối của con người chỉ đi tìm những lạc thú trần gian, những điều chóng qua mà đánh mất thực tại siêu nhiên, chân lý, sự toàn thiện. Con người dễ bị những thực tại trước mắt che khuất tầm nhìn phương xa. Giữa chốn u mê, bờ ảo, con người ở trong bóng tối luôn chọn lựa sai lầm, hết sai lầm này đến sai lầm khác, như những lần vấp ngã mà cuối cùng kiệt sức không đứng dậy được nữa. Chặng đường thập giá của Chúa Giêsu ngã xuống đất ba lần, đó là ba lần Chúa ngã thay cho con người vấp phạm, yếu nhược để cùng Chúa đứng lên, bước tiếp trên con đường thập giá đến cùng để phục sinh. Sức mạnh của tình yêu là vực dậy, đứng lên, Chúa là Tình Yêu tiếp sức cho con người.
Chúa Giêsu an nghỉ trong mồ. Đó là thời gian đặc biệt ý thức thời gian nếu Chúa vắng mặt, sự dữ, bóng tối lộng hành. Các tông đồ về căn phòng đóng kín, sợ hãi. Sự vắng thiếu Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta cũng gây nên những điều khiếp sợ. Không có Thiên Chúa, con người chỉ có sự chết gieo vào trong mọi mặt đời sống, chiến tranh sinh học, virus, không cần nhiều bom đạn, sự chết cũng tràn lan, nền kinh tế đi vào suy thoái. Văn minh mặt nạ, khoảng cách giao tiếp, và máy thở phát triển. Trong thời gian đặc biệt này, nhiều người, nhiều quốc gia ý thức về đời sống cầu nguyện, xin Chúa nghiêng trời ngự xuống cứu giúp, thương xót nhân loại cần có Chúa hiện diện, phá tan âm mưu đen tối của con người ác hại.
Con người giết chết Thiên Chúa để làm chủ theo ý riêng mình, nhưng thực tại là ngõ cụt, sự chết của chính mình. Giáo Hội cổ xưa đã dùng cụm từ này như thánh thi dành cho những người tân tòng khi chịu phép rửa: “Ta không dựng nên người cho ngục tối. Hãy chỗi dậy, và Đức Kitô sẽ ban cho người ánh sáng”. Đấng Phục Sinh bước ra từ ngục tối, đã mang lấy bóng tối của Adam xưa, cùng một dòng dõi con người để sống lại trong Adam mới. Đấng đã mang lấy tất cả để trở nên tất cả cho mọi người, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is, 49,6).
Chúa bước ra khỏi mồ là một hành trình mới, Người về cùng với Chúa Cha. Con người cũng được ở trong Chúa Giêsu Kitô phục sinh, sẽ bước ra từ ngục tối trần gian của mình để bước tới phía trước, phía bình minh chiếu rạng, về cùng với Thiên Chúa. Từ nay, con người của phục sinh là con người đi tìm “sự công chính và Nước Thiên Chúa”. Tìm gặp Chúa cũng là tìm gặp lại anh chị em của mình là những con người cùng chung sống trong hạnh phúc và yêu thương.
Xin Chúa phán bảo con điều quyết liệt của Người: “Hãy đi ra! Ta không làm cho ngươi thành một ngục tù!”. Xin Chúa Phục Sinh ban cho chúng con một sức sống mới để bước tới, về phía Thiên Chúa.
.PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN
Jorathe Nắng Tím
Trong “Tám Mối Phúc Thật” không có mối “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng “Phúc cho ai không thấy mà tin” lại là mối phúc nền tảng của tất cả các mối phúc khác.
Thực vậy, phải được phúc “không thấy mà tin” mới tin được Nước Trời của người có tâm hồn nghèo khó, Đất Hứa dành cho ai ăn ở hiền lành, người sầu khổ sẽ được Thiên Chúa ủi an, khao khát sống đời công chính sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng, có lòng thương xót sẽ được Thiên Chúa xót thương, có tâm hồn trong sạch sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa, yêu chuộng và xây dựng hoà bình sẽ được Thiên Chúa gọi là con, và những ai bị bách hại, vu khống vì Danh Thiên Chúa sẽ nhận phần thưởng Nước Trời (x. Mt 5,3-12), bởi tất cả những điều vừa kể, những phần thưởng vừa kê đều thuộc đức tin, nằm trong những gì không thấy, không kiểm chứng được bằng khoa học thực nghiệm, mà chỉ duy nhất niềm tin mới có thể lý giải, chứng thực, bảo đảm.
Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới dám dấn thân tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất, vì không như các tông đồ, chúng ta đã không thấy Ngài, không nghe Ngài nói, không sống với Ngài bằng xương bằng thịt. Nhưng dù không thấy, không nghe, không ở cùng, sống với, chúng ta vẫn yêu mến Ngài, nhờ hồng phúc “không thấy mà tin”.
Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại với quyền năng của Thiên Chúa, để chúng ta được sống lại và sống mãi với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.
Và trên tất cả, phải có phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót, công trình cứu chuộc của Ngài đến từ lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại, và những ai có lòng thương xót dù chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, bất công, khổ nhục vì thương xót sẽ không bao giờ mất ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì xót thương.
Điều này được Tin Mừng Gioan khẳng định qua trình thuật Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-29).
Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ khi các ông sợ người Do Thái truy lùng, bắt bớ, nên tất cả cửa nẻo nơi các ông ở đều đóng kín, khóa chặt (x. Ga 20,19). Các ông đang rất sợ: sợ mọi người, sợ bất cứ chuyện gì, vì các ông vừa qua một cơn giông bão dữ dội, khủng khiếp, ở đó toàn bộ giáo lý của lòng thương xót đã bị xóa bỏ, toàn bộ công cuộc của lòng thương xót đã bị phá hủy, tiêu tan, và Đức Giêsu, Thầy của các ông, Thiên Chúa của lòng thương xót đã bị giết chết thảm thương, ô nhục. Bao nhiêu cố gắng rao giảng lòng thương xót, bao nhiêu phép lạ làm chứng Thiên Chúa là Đấng xót thương, bao nhiêu con người đã được lòng thương xót chở che, chữa lành, ủi an, nâng đỡ nay không còn gì, không còn một ai. Chính cái trống vắng phũ phàng, phản bội của đám đông hôm nào hoan hô, ủng hộ đã làm các ông sợ ; chính cái tiêu điều trở mặt của nhiều người đã nhận lòng thương xót từ bàn tay Đức Giêsu đã làm các ông ngao ngán tình đời, và muốn tránh xa mọi người; chính cái băng giá dửng dưng, hờ hững, làm mặt không quen, ra điều không biết của những người trước đây đã phủ phê hạnh phúc với lòng thương xót của Đức Giêsu đã khiến các ông rùng mình, không còn muốn giao lưu, gặp gỡ người nào.
Tóm lại, các ông đang sợ, và rất sợ con người, những con người trước đây các ông đã học với Thầy Giêsu để biết cảm thương, chạnh lòng, giúp đỡ; những con người mà Thầy các ông không ngừng nhắc bảo phải thương yêu,tha thứ, và cầu nguyện, dù họ không tốt, không tử tế, không dễ thương, không công chính.
Khi còn ở với Thầy, các môn đệ không thấy lòng thương xót là một mạo hiểm, một thách đố, một đe dọa. Các ông chỉ thấy khi Thầy chết, và khi mặt thật gian ác, đểu cáng, phản bội, hai hàng của nhiều người lộ nguyên hình. Lúc đó các ông mới thấy lòng thương xót là một thử thách đầy nguy hiểm: nguy hiểm vì có thể chết vì xót thương ; nguy hiểm vì bị hiểu lầm, chụp mũ, vu khống vì thương xót; nguy hiểm vì thương xót thường mang đến bất lợi, tai ương, phiền phức cho người hay chạnh lòng xót thương.
Vì thế, cái sợ đang làm các ông run rẩy tái xanh mặt, cái sợ đang làm các ông rùng mình, rởn tóc gáy chính là “sợ thương xót”. Sợ phải thương xót như Thầy dặn dò, truyền dậy, nên các ông tự đóng chặt cửa lòng, như đóng chặt cửa phòng, để không phải thương xót ai, khép kín tâm hồn, khoá kỹ trái tim để không ai lọt vào lòng thương xót.
Hơn ai hết, trong lúc này, lúc mà Thầy bị kết án tử hình, chết đóng đinh, và chôn kín trong mồ; lúc mà không còn dám tin ai, vì chung quanh toàn những khuôn mặt đe dọa, những ánh mắt mang “hình viên đạn” rình rập, dò xét, các môn đệ của Đức Giêsu thấm thía thân phận bèo bọt của người có lòng thương xót, và số phận hẩm hiu của những người có trái tim hay chạnh lòng xót thương, mà điển hình và nổi bật nhất chính là Đức Giêsu, Thầy các ông.
Nhưng hôm nay, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, cửa lòng các ông khép chặt, và tâm hồn các ông tan hoang, chán nản thì Đức Giêsu phục sinh hiện đến giữa các ông với ơn Bình An của Ngài. Kèm theo lời chúc “Bình An cho anh em!” (Ga 20,19), Đức Giêsu trấn an các ông, bằng chỉ cho các ông các vết thương trên thân xác Ngài, như dấu chứng của tình yêu thương xót vô bờ bến.
Khi cho các ông xem các dấu đinh và vết thương sâu hoắm của lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, Đức Giêsu không khoe khoang thành tích chịu đau khổ, cũng không có ý cường điệu mức độ bi hùng của cuộc khổ nạn Ngài vừa trải qua, nhưng chỉ muốn các ông nhận diện một cách sống động qua thương tích thập giá trên mình Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa, để các ông hiểu rằng: không lòng thương xót sẽ không có Thánh Giá, không Thánh Giá sẽ không có ơn cứu độ, và không ơn cứu độ, không con người nào được sống đời đời trong bình an của Thiên Chúa.
Như thế, lòng thương xót là nền tảng của giáo lý đức tin, là động cơ của mọi hoạt động tông đồ, là điều kiện để nhận được ơn Bình An, là đòi hỏi không thể miễn giảm của ơn gọi làm người Kitô hữu, bởi một lý do không cần biện minh, vì hiển nhiên: Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót.
Thực ra, khi Tôma từ chối lời chứng của các anh em: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, và thẳng thừng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25), ông đã không chỉ từ chối tin sự sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu, mà sâu thẳm hơn, chính là từ chối tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, vì những ngày qua, ông đã tận mắt thấy sự sụp đổ bẽ bàng của mọi công trình truyền giáo, cũng như cái chết tang thương của Đức Giêsu, và cho rằng: “kết qủa” cuối cùng là thất bại chua cay của lòng thương xót, sai lầm không thể cứu vãn của lòng thương xót, sụp đổ toàn bộ của lòng thương xót mà Đức Giêsu là người chủ trương, kêu gọi, loan truyền, làm chứng.
Đây cũng là lý do Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên các vết thương của Thánh Giá, như dấu ấn không bao giờ phai mờ của lòng thương xót. Cũng vậy, khi bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20,27), Đức Giêsu muốn Tôma chạm vào chính lòng thương xót còn rướm máu của Ngài, sờ vào lòng thương xót còn bầm tím của Ngài, và “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” Thầy là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, tin lòng thương xót của Thầy mãi tồn tại bao la, quyền năng vô biên và trung tín đến cùng.
Vâng, cũng như các môn đệ, đặc biệt Tôma, niềm tin vào một Thiên Chúa của lòng thương xót ở chúng ta không ngừng bị thử thách, bởi tin một Thiên Chúa toàn năng, thông biết mọi sự, chí công vô tư, công bình thưởng phạt dễ hơn tin một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, bao dung, thương xót; tin một Thiên Chúa “dựng nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” dễ hơn tin một Thiên Chúa làm “Chiên gánh tội, xoá tội trần gian”; tin một Thiên Chúa oai phong lẫm liệt, Chúa các đạo binh dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm hạ qùy xuống rửa chân cho các môn đệ, giao du thân mật với đám dân nghèo không nhà, và phường tội lỗi; tin một Thiên Chúa “phán một lời thì mọi sự liền đã” dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm nhường và hiền lành như con chiên để loài người đưa ra xử án, rồi bắt vác thập tự đến chỗ hành hình đóng đinh; tin một Thiên Chúa “phép tắc vô cùng” dễ hơn tin một Thiên Chúa bao dung, thương xót vô cùng; tin một Thiên Chúa ngự toà vinh quang có triều thần tung hô, thờ lậy dễ hơn tin một Thiên Chúa tự đồng hoá mình với người bé nhỏ nhất giữa những người bé nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật, tù đầy, bị truy nã, tỵ nạn, bị đàn áp bất công; tin một Thiên Chúa tự hữu và “hằng có đời đời” dễ hơn tin một Thiên Chúa tự nguyện đi vào khổ nạn và chịu chết như con người vì thương xót con người ; tin một Thiên Chúa chí thánh chí tôn dễ hơn tin một Thiên Chúa mồ hôi nhễ nhãi giữa trưa nắng bên bờ giếng Giacóp đắm thắm và ân cần lắng nghe tâm sự buồn của người đàn bà tình duyên truân chuyên, dang dở; tin một Thiên Chúa được mọi người chúc tụng, tôn vương trên đường vào thành thánh Giêrusalem dễ hơn tin một Thiên Chúa bị xỉ vả, hành hạ trên đường Thánh Giá của lòng thương xót đi về Gôngôtha; tin một Thiên Chúa biến hình sáng láng và lên trời quang vinh dễ tin hơn một Thiên Chúa trở thành tử thi được tháo xuống khỏi Thánh Giá và an táng trong phần mộ của người khác, và tin một Thiên Chúa đã định nghiã tình yêu đích thực là “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi anh em” (Mt 5,44), và chỉ những người yêu như thế mới đáng được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) thì qủa thực là một điều không dễ chút nào, nếu không nói là một thách đố vượt sức người có hạn.
Và như Tôma phủ phục thưa với Đức Giêsu: “Lậy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), sau khi ông hiểu ra: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa đang mang trên mình thương tích của lòng thương xót mà ông đã được sờ tận tay, thấy tận mắt, chúng ta cùng nài xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để dám tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, dám đón nhận và sống ơn gọi Kitô hữu là “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), bằng thương xót như Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, bởi tin là tin Thiên Chúa của lòng thương xót, tin Thiên Chúa luôn rộng lượng xót thương, tin Thiên Chúa xót thương ai có lòng thương xót, tin duy nhất Lòng Thương Xót mới ban ơn Bình An, và chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc, vì đã “không thấy mà tin”.
Bông hồng nhỏ
Ai trong chúng ta cũng đang sống, nhưng chúng ta có thật sự sống và sống dồi dào không? Sau cái chết ô nhục của Thầy Giêsu, cuộc sống của các môn đệ bị đảo lộn, các ông rơi vào một nỗi sợ khủng khiếp: Người Do thái sẽ tìm giết các ông. Các ông đang sống mà như đã chết, nỗi sợ bóp nghẹt và vây kín tâm hồn các ông. Sống trong nỗi sợ quả là khủng khiếp! Ai sẽ ở bên cạnh và giải thoát chúng ta khỏi bao điều sợ hãi?
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy Giêsu đã mang lại niềm vui nơi tâm hồn các môn đệ. Thầy hiểu rõ điều các ông đang cần đó là sự bình an. Vắng Thầy, các ông mất bình an, đầy hoang mang và lo sợ. Bây giờ, các ông hạnh phúc biết bao khi được thấy Chúa, được đụng chạm vào thân xác phục sinh của Chúa. Các ông nhận được Thánh Thần, để Người hướng dẫn và giải thoát các ông khỏi mọi nỗi sợ hãi, để các ông can đảm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh.
Có một môn đệ tên là Tôma, ông đã vắng mặt khi Chúa hiện đến. Nghe các anh em nói: “Chúng tôi đã thấy Chúa”, ông không tin. Ông muốn được tận tay đụng chạm đến Chúa. Ông không phải là người dễ dàng đón nhận niềm tin từ người khác truyền lại. Ông cũng sẽ được Chúa cho toại nguyện vì Chúa yêu thương ông, Chúa không vì sự cứng lòng tin nơi ông mà lãng quên ông. Lòng quảng đại của Chúa trải dài, để qua ông, nhiều người sẽ nhận ra mình thật có phúc, vì dù không thấy Chúa nhưng họ vẫn một lòng kính tin.
Các Tông đồ là những chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Ngày hôm nay, chúng ta là những người môn đệ được thừa hưởng đức tin mà các Tông đồ truyền lại. Mỗi người tín hữu cũng sẽ được sống đức tin mỗi ngày, họ sẽ nói cho mọi người biết rằng: “Tôi đã thấy Chúa!” hay “Chúng tôi đã thấy Chúa!”. Điều này quả không phải là điều đơn giản. Các Tông đồ đã không thuyết phục được ông Tôma, có lẽ vì chính cuộc sống của họ chưa chứng tỏ được điều đó họăc vì Tôma chưa được thấy Chúa tận mắt. Chỉ khi Tôma được sống tương quan cá vị với Chúa, được đụng chạm đến Chúa của mình, ông mới reo lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Có thể, chúng ta không thể thuyết phục người khác bằng chính lời nói của mình, nhưng chúng ta có thể dùng chính đời sống chứng tá của tình thương mà diễn tả niềm tin và niềm hạnh phúc của chúng ta. Tại sao ngay giữa những sóng gió của cuộc đời, người tín hữu vẫn bình an và dường như họ còn sống dồi dào hơn nữa? Bởi vì người Kitô hữu được sống trong bình an của Chúa, tình thương mà họ nhận được từ Chúa Phục Sinh không ngừng lan tỏa đến mọi người. Đó là một sự lôi cuốn và thu hút, dù âm thầm nhưng rất mạnh mẽ, nó sẽ làm cho nhiều người phải để tâm suy nghĩ. Ai cũng có quyền được trở nên người có phúc, được cảm nếm hạnh phúc có Chúa trong đời. Thế nhưng, trên thế giới vẫn còn rất nhiều người chưa có được hạnh phúc ấy. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chính khi chúng ta không hết lòng sống đức tin, không để Chúa hiện diện trong tâm hồn mình, không đón lấy Thánh Thần của Thiên Chúa, mà chỉ say mê chạy theo thói đời, chúng ta làm cản trở ơn Chúa đến với anh chị em chúng ta.
Cuộc sống vẫn luôn có những sóng gió và thử thách. Giữa những gian nan và bao nỗi sợ đang chi phối, chúng ta hãy cùng quây quần bên nhau để cầu nguyện. Chính Thánh Thần tình yêu sẽ đến xua tan bóng đêm của sự dữ, và bình an của Chúa Phục Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn mỗi chúng ta.
Lạy Chúa Phục Sinh! Xin Chúa đến và diện diện trong tâm hồn chúng con, xin Ngài đến xua tan bao nỗi sợ hãi đang bủa vây giăng mắc và đóng kín tâm hồn chúng con. Xin Thánh Thần Chúa ban sức mạnh, tình yêu và sự khôn ngoan để giúp chúng con can đảm sống chứng tá cho Chúa giữa đời. Để khi cảm nhận được bàn tay Chúa đỡ nâng, được cảm nhận sự hiện diện của Chúa, chúng con cũng reo lên bằng cả đời sống của chúng con: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Amen.
Anna Cỏ May
“Bình an cho anh em” (Ga 20,19).
Thấy Thầy của mình uy quyền là thế mà vẫn bị các vị lãnh đạo khép vào tội chết, nên dù có một vài người nói rằng Thầy đã sống lại nhưng các môn đệ vẫn lo lắng và sợ hãi trước ánh mắt và cử chỉ của người Do thái và với chính con người của mình. Các ông đã giấu mình trong căn phòng đóng kín cửa. Bấy giờ, Chúa Giêsu hiện đến giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Ngài đến để trao ban bình an cùng đem lại niềm vui và sức sống cho các ông. Sức sống mà các ông lãnh nhận là sức sống của Chúa Thánh Thần. Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Sức sống Chúa Giêsu không chỉ trao cho các môn đệ mà Ngài còn trao ban cho những ai nhận biết và tin vào Ngài cũng như những kẻ kém lòng tin. Ông Tôma, sau khi nghe anh em nói về cuộc gặp gỡ với Thầy, đã nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, cũng tại căn phòng đóng kín cửa, Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Dù lòng ông có cứng như đá, nhưng đứng trước tình yêu và lòng thương xót của Chúa, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Ông đã tin nhận Chúa.
Chúng ta cũng đang trong tâm trạng của các môn đệ là lo lắng và sợ hãi. Lo vì dịch bệnh lan tràn quá nhanh và kéo theo nhiều nỗi lo khác, sợ vì mình sẽ chết bất cứ lúc nào. Đứng trước cái lo và sợ, chúng ta hãy đóng cửa của sự hận thù, tức giận, ghen ghét và ích kỉ lại; và mở cửa của trái tim tình yêu, lòng bác ái; cùng nhau quy tụ lại cầu nguyện với Mẹ Maria trong ngôi nhà của mình, để mời Chúa đến trao ban bình an và giải thoát chúng ta khỏi nỗi lo sợ. Nhờ đó, chúng ta được sống trong Thần Khí của Chúa mà xác tín rằng: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa mà có chết là chết cho Chúa” (Rm 14, 8).
Lạy Chúa! Chúa biết rõ chúng con đang ở trong tình trạng nào, xin Chúa mau đến giải thoát chúng con khỏi nỗi lo sợ mà cho chúng con sống trong bình an của Chúa. Xin cho chúng con vững tin phó thác mọi sự cho Ngài và cộng tác với Ngài bằng sự yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau, cùng nhau vượt qua mọi sóng gió cuộc đời mà tiến về miền đất hứa. Amen.
Lm. Thái Nguyên
Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.
Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin vào ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình. Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Ngài trách ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em. Rõ ràng con người Tôma có cái gì bất ổn, bất thường, lập dị, tách biệt. Nhưng may là ông trở về với đời sống cộng đoàn, nên đã chứng kiến việc Chúa phục sinh.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người… Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.
Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi Rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó…
Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của người khác, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa vẫn xảy ra trong đời ta. Thương xót là muốn cho nhau một cuộc sống tốt hơn, là tìm cách dẫn đưa anh em về đường ngay nẻo chính. Muốn vậy, nhiều khi chính mình phải hy sinh và chấp nhận thương đau.
Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của bạn đi! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.
Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra rằng mình được diễm phúc trở nên Kitô hữu là nhờ lòng thương xót Chúa, để suốt đời ta biết sống cho mọi người, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn, là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa xót thương. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”.
Cầu nguyện
Lạy Cha!
Thương xót không chỉ là hành động của Cha,
mà còn là tiêu chuẩn để biết ai là con cái,
để nối dài lòng thương đoái của Cha.
Thương xót không loại trừ công bằng và sự thật,
không dung túng cho những điều tai ác xấu xa,
nhưng để người ta biết kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.
Thương xót cũng là hành động cao quí nhất,
cho thấy phẩm chất sâu nhất của con người,
là hành vi thờ phượng cao hơn cả,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà là cuộc sống với tất cả lòng nhân.
Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã nhập thể làm người thế,
là để thể hiện lòng thương xót của Cha,
ngay trên thập giá Chúa vẫn nói lời thứ tha,
trước lòng dạ vô tâm và bạc ác của con người,
vì muốn gánh hết mọi tội đời cho thiên hạ.
Chúa gọi chúng con nên hoàn thiện như Cha,
không phải là không còn gì thiếu sót,
mà hãy có lòng nhân từ và tha thứ,
không xét đoán và càng không lên án,
luôn bao dung và đại lượng vô vàn,
vì thương xót là tình yêu không giới hạn.
Xin cho tim con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy mà phát sinh con người mới,
để tình yêu Chúa hằng tỏa sáng khắp nơi.
Đời con đã được Chúa xót thương,
nên con chẳng mong ước được gì hơn,
là thân con trở thành lòng thương xót Chúa,
loan báo tin vui ơn cứu độ cho đời. Amen.
(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 28)
LÒNG THƯƠNG XÓT XUA TAN SỰ SỢ HÃI
Lm. Giuse Đỗ Đức Trí
Cho đến hôm nay, số người nhiễm Virus Vũ Hán tại Việt Nam vẫn cứ tăng dường như mỗi ngày. Các quốc gia đang chạy đua để bào chế vắc-xin và thuốc đặc trị. Việt Nam có phác đồ điều trị theo hoàn cảnh của Việt Nam và kết quả cho thấy đến nay chưa có người chết. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam. Tuy nhiên, con Virus Vũ Hán vẫn là mối đe doạ cho hết mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia. Bên cạnh sự nguy hiểm của Virus Vũ Hán, còn có những thứ virus khác đang huỷ hoại tâm hồn con người. Đó là thứ “virus hoảng loạn, sợ hãi”, khiến cho nhiều người bị tê liệt trong tâm hồn, mất kiểm soát trong hành động và lâu dài nó làm suy nhược ý chí của con người.
Thưa quý OBACE, cái chết của Chúa Giêsu năm xưa cũng đã khiến các tông đồ của Chúa rơi vào tình trạng hoảng loạn, sơ hãi. Các ông sợ hãi đến độ đánh mất tất cả ý chí, suy nghĩ, chỉ còn sống co cụm lẩn trốn với nhau trong nhà vì sợ người Do Thái. Các ông sợ hãi đến độ tuy còn thở nhưng như những người đã chết. Trong tình cảnh đáng thương như thế, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Sự bình an là món quà đầu tiên và hết sức cần thiết cho các tông đồ, mà Chúa Giêsu đem đến cho các ông lúc này. Để củng cố cho sự yếu đuối của các tông đồ, Chúa Giêsu còn cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, cho các ông được đụng chạm đến Người bằng xương bằng thịt sau khi Người đã từ cõi chết sống lại.
Thánh Gioan ghi lại: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Tâm hồn và cuộc đời các ông như hoang mạc khô cháy, chết chóc, nay đón nhận được nguồn nước và bắt đầu hồi sinh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Phục Sinh còn muốn biến đổi hoàn toàn các ông, xua tan tất cả những sợ hãi chết chóc trong tâm hồn và ban cho các ông một sức sống mới: “Ngài đã thổi hơi trên các ông và phán: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Như vậy, sức mạnh mới mà Chúa Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ chính là Chúa Thánh Thần, để từ đây các ông không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh Chúa thổi hơi trên các ông còn nhắc cho chúng ta nhớ đến hình ảnh ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào mũi con người, để cho nó có sự sống. Hôm nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi trên các tông đồ để biến các ông từ những xác chết trở thành những con người mang sự sống của Chúa Phục Sinh. Cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các ông quyền cầm buộc và tha thứ. Từ đây, các tông đồ sẽ dùng quyền năng của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa tiếp tục ban ơn tha thứ cho nhân loại.
Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót của Chúa, bởi vì câu chuyện cho thấy, Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ quan tâm cách chung đến các tông đồ, nhưng Ngài thấu hiểu tâm hồn của từng người, cụ thể là Tôma. Trong lúc hoảng loạn do cái chết của Thầy và sợ hãi vì nghĩ rằng người Do Thái sẽ tìm cách tiêu diệt tất cả những ai liên quan đến Thầy Giêsu, Tôma đã bỏ anh em tông đồ để tìm kiếm một nơi trú ẩn đâu đó. Chiều Chúa Nhật tuần trước khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có mặt của Tôma. Vì vậy, anh đã không thể đón nhận được niềm tin Phục Sinh. Không những thế, anh quyết liệt đòi cho bằng được đụng chạm đến vết thương của Thầy, đòi có một kinh nghiệm cá nhân gặp được Thầy: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”
Chúa Giêsu Phục Sinh đã thấu hiểu và cảm thông với một tâm hồn đã từng bị tổn thương vì cuộc khổ nạn thập giá của Ngài, Ngài không muốn để anh trở nên mặc cảm hay lạc lõng giữa anh em. Vì thế, Chúa đã gọi đích danh anh: “Tôma! Đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy đưa bàn tay ra mà xỏ vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.”Lòng thương xót của Chúa Phục Sinh đã đổ vào trái tim và tâm hồn của Tôma, phá tan sự sợ hãi và nghi ngờ. Chúa cho Tôma được đụng chạm đến dấu đinh và vết thương của Chúa là được chạm vào lòng thương xót của Chúa. Tôma đã được biến đổi hoàn toàn, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi.”
Tin mừng Gioan còn cho thấy một điểm giáo lý quan trọng qua câu chuyện: Sở dĩ Tôma không đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh bởi vì Tôma đã tách khỏi các tông đồ, có nghĩa là tách khỏi cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội đón nhận mầu nhiệm phục sinh từ nơi Chúa Giêsu và trở thành nhân chứng đáng tin nhất của mầu nhiệm này. Vì thế, chỉ những ai hiệp thông, hiệp nhất hoàn toàn với Giáo Hội, mới có thể đón nhận được niềm tin phục sinh và có cùng một cảm nhận, một niềm vui với Giáo Hội. Lời Chúa nói với Tôma: “Vì con đã thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”, là lời Chúa chúc phúc cho chúng ta, là những người tin vào Chúa Phục Sinh không phải vì được thấy Chúa, nhưng nhờ lời rao giảng và làm chứng của Giáo Hội.
Các tông đồ đã hoàn toàn vượt qua sự sợ hãi trước đây, được đón nhận một tinh thần mới, sức sống mới của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn trở nên những con người mới. Sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự can đảm hiên ngang của các tông đồ sau sự kiện phục sinh. Các tông đồ lên đường đi khắp nơi rao truyền sức sống mới cho các dân tộc, làm cho họ trở nên một dân mới: “Mọi người đều kính sợ vì các tông đồ đã làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Còn các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.”
Chúa Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ từ những con người nhát đảm sợ hãi, nay trở nên mạnh mẽ hiên ngang; từ những con người bình dân kém cỏi, nay các ông trở nên uyên bác thông thái; từ những con người trước đây còn phân bì, tị nạnh nhau, nay các ông trở nên những con người nhiệt tâm, nhiệt thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã quy tụ về cho Chúa một đoàn dân mới sống trong tình huynh đệ, yêu thương, trong cùng một đức tin, một việc phụng thờ và một tình bác ái: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung…Họ đồng tâm nhất trí ngày ngày lên Đền Thờ. Khi tham dự lễ bẻ bánh họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được mọi người thương mến.”
Thưa qúy OBACE, thánh Phêrô mời gọi chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã cho chúng ta được tái sinh để sống con người mới, cuộc sống mới, nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong niềm vui, hy vọng và hân hoan, cho dù có trải qua những gian nan thử thách. Chúng ta không thể để mình rơi vào tình trạng hoảng sợ trước nghịch cảnh như những người không có niềm tin. Trái lại, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng và phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Sống tin tưởng phó thác không có nghĩa là chúng ta thụ động ỷ nại vào Thiên Chúa mà không có sự nỗ lực cố gắng của bản thân. Ví dụ: dịch bệnh đang diễn ra trên thế giới là hết sức nguy hiểm, chúng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, nhưng vẫn phải khôn ngoan và biết áp dụng những cách phòng tránh để gìn giữ sức khoẻ cho mình và cho cộng đồng.
Trong thời đại ngày nay, ma qủy dùng nhiều cách để gieo sự hồ nghi và làm lung lạc đời sống đức tin của người tín hữu, đặc biệt niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Những lúc gặp khó khăn trong đời sống đức tin, noi gương Tôma, hãy quay trở về với Giáo Hội, trình bày những khó khăn của mình với Giáo Hội. Vì khi liên kết mật thiết với Giáo Hội, đức tin của chúng ta sẽ được nuôi dưỡng, được củng cố nhờ các thánh lễ và các bí tích. Nơi thánh lễ mỗi ngày, chúng ta sẽ gặp được Chúa Phục Sinh và được đụng chạm đến lòng thương xót của Ngài, Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự bình an.
Xin Chúa Phục Sinh thổi hơi trên chúng ta, ban cho ta sự sống mới của Ngài. Xin Ngài cũng ban Thánh Thần của Ngài xuống trên chúng ta, cách riêng những người trẻ, để Thánh Thần là sức mạnh, biến chúng ta thành những con người mới, can đảm mạnh mẽ, không sợ hãi, sống và làm chứng cho Chúa Phục Sinh trong thời đại công nghệ hôm nay. Amen.
Lm. Giuse Nguyễn Hữu An
Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ Ngài đều “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài. Chính trong cộng đoàn bị thương tích, đau đớn và vỡ mộng này, Chúa Giêsu đã đến, mang theo những lời tha thứ và chữa lành: “Bình an cho anh em”.
Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân. Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.
Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?
- Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa
Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).
Chúa Giêsu phục sinh mang các vết sẹo như là chiến tích vĩnh cửu. Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.
Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.
- Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả
Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.
Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.
Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.
Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.
3. Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh
Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!
Đức Giêsu đã không lạ lẫm với đau đớn, âu lo, thất bại và nỗi cô đơn. Người biết sự phản bội của bạn hữu. Người đã mang lấy những vết thương hữu hình và vô hình vì nhân loại. Chúng ta cũng vậy, không chỉ mang lấy những vết thương của mình, mà còn cưu mang những thương tổn của những người ta yêu mến, những người gặp hoạn nạn và bệnh tật. Chúng ta cũng thổn thức với những âu lo, đau khổ của thế giới trong những tháng ngày dịch bệnh virut Vũ hán. Giờ đây, ánh sáng của Thiên Chúa đã chiếu sáng xuyên qua bóng tối của ngôi mộ, chúng ta không còn phải lo sợ về cái chết cuối cùng nữa.Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).
Ngày 23/9/1968, cha Piô Năm Dấu, vị linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại nước Ý. Ngài nổi tiếng vì được Chúa in năm dấu thánh trên thân thể suốt 50 năm. Năm dấu thánh đó là năm vết thương của Chúa được in trên hai tay, hai chân và cạnh sườn cha Piô. Những vết thương đó thường rỉ máu và làm cho ngài đau đớn khôn tả. Ngài được khám nghiệm y khoa và được kiểm chứng bằng khoa học nhiều lần. Nhưng tất cả các nhà chuyên môn đều không thể giải thích được hiện tượng này và cũng không có cách nào chữa trị được các vết thương đó.Ngày 02/5/1999 ngài được phong chân phước và ngày 16/6/2002 được phong hiển thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.
Cha thánh Piô đã được in năm dấu thánh để được hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Đó cũng là những chứng tích niềm tin cho một thế giới “cứng lòng tin” hôm nay. Chúng ta cũng hãy mang lấy những dấu tích đau thương của Chúa không phải nơi thân xác nhưng trong tâm hồn và cuộc sống chứng nhân, để làm cho niềm tin được tỏa sáng đến mọi người.
Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.
Trầm Thiên Thu
Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới có thể giải thoát con người. (Ga 8:32) Về ngữ nghĩa, chữ giải thoát và giải phóng có nghĩa tương tự – theo Phật giáo là giác ngộ, nhưng thiết nghĩ nên tránh chữ “giải phóng” trong thời đại ngày nay. Muốn “giải phóng” người khác thì mình phải hơn người khác, kẻ kém cỏi hơn không thể “giải phóng” người hơn mình – bất cứ lĩnh vực nào.
Bởi vì cuộc đời có nhiều thứ giả dối nên người ta càng cần sự thật. Muốn biết sự thật thì phải kiểm chứng xem thực – hư ra sao, không nên nhẹ dạ cả tin trong xã hội nhiễu nhương ngày nay. Đức tin vẫn cần lý trí. Có lẽ vì vậy mà Tôma tông đồ chưa tin ngay dù đã nghe nhiều người nói, mà muốn kiểm chứng sự thật về Người Thầy chí thánh của mình.
Ngôn ngữ biểu hiện bằng chữ. Mà chữ thì phải có nghĩa. Nghĩa phải rõ ràng, chính xác, không thể hàm hồ. Và rồi người ta đã có chủ nghĩa thực chứng (positivism). Đó là học thuyết triết học cho rằng các định đề không thể xác minh được khi đối chiếu với bằng chứng thực tiễn thì chí ít cũng không thể chấp nhận đó là một bộ phận của khoa học, nghiêm túc nói thẳng nói thật thì đó là điều vô nghĩa.
Chủ nghĩa thực chứng là khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã hội học, cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của tự nhiên, xã hội và con người. Khái niệm này được phát triển ở đầu thế kỷ 19 bởi triết gia và nhà xã hội học Auguste Comte, người Pháp. Từ chủ nghĩa này dẫn tới chủ nghĩa duy vật và vô thần, cũng dính líu Hội Tam Điểm. Hội này theo chủ nghĩa duy tâm mơ hồ, tôn kính các thực thể trừu tượng như Tính Nhân Đạo, Khoa Học, Lý Luận, và muốn loại bỏ Giáo Hội. Thực sự rất nguy hiểm đối với đức tin Công giáo!
Tên gọi Hội Tam Điểm (Anh ngữ: Freemasonry, Pháp ngữ: Franc-maçonnerie, nghĩa là “nền tảng tự do”) dùng để chỉ một tập hợp các hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên quan các ẩn dụ về người thợ xây đá. Việt ngữ gọi hội này là “Tam Điểm” vì các hội viên người Pháp thường gọi nhau là frère (sư huynh, sư đệ) hoặc maître (sư phụ), viết tắt F hoặc M và thêm vào phía sau dấu ba chấm như ba đỉnh hình tam giác đều.
Đầu thế kỷ 20, các nhà xã hội học Đức (Max Weber và Georg Simmel) đã phản đối thuyết thực chứng và lập nên trường phái Phản Thực Chứng (Anti-Positivism) trong xã hội học.
Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), CN II PS, được Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938). Cách gọi khác nhưng chỉ một ý nghĩa. Cũng vậy, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX vẫn là một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi của LCTX, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó.” (Nhật Ký, số 341) Và điều đó đã được phổ biến toàn cầu ngày nay, đặc biệt trong cơn đại dịch corona này, con người càng cần đến LCTX hơn bao giờ hết.
Trong Nhật Ký, Thánh Faustina cho biết lời hứa của Chúa Giêsu: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta.” (số 1109) Đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas (Dimas) đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, khoảng 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX – Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.
Trên đường lữ hành trần gian, đức tin rất quan trọng. Thánh Phaolô nói: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3:28) Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, có thể gọi là “mối phúc thứ chín,” do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng.” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16) Trong tình trạng “cách ly xã hội” ngày nay, mỗi người có thể tự kiểm chứng xem đức tin của mình như thế nào khi không thể cùng nhau tham dự Phụng Vụ với cộng đoàn.
Đức tin chân chính khác với mê tín dị đoan, mặc dù cũng liên quan niềm tin. Trong niềm tin lệch lạc có liên quan tử vi. [1] Có người lý luận rằng tử vi là khoa học, không có tội. (sic!) Coi chừng! Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số,” một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi.” Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Tin thật trong lòng hay tin bằng môi miệng?
Câu nói đơn giản mà thâm thúy: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng.” Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi. Một thực tế minh nhiên.
Đề cập cách sống đức tin, Thánh Faustina cho biết: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa.” (Nhật Ký, số 1659) Những cái nhỏ mà quan trọng, vì chính cái nhỏ lại là cái cơ bản thiết yếu.
Thánh Vịnh gia luôn giữ vững niềm tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn.” (Tv 73:26) Chỉ người nào có đức tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39) Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Đức tin càng trong ngần càng sâu sắc và mạnh mẽ.
Kinh Thánh kể ngắn gọn nhưng hàm súc: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh TẠI TƯ GIA, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” (Cv 2:42-47) Trong thời gian này, mọi hoạt động cũng xảy ra “tại tư gia” chứ không như trước đây – trong đó có việc tham dự Thánh Lễ online. Sinh hoạt gia đình là cách kiểm chứng đức tin của tín nhân.
Chỉ một đoạn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, không tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,… Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Điều đó được chứng thực bằng những hoạt động nhân đạo trong hoàn cảnh khó khăn giữa cơn đại nạn này: Máy ATM Gạo, những phần thực phẩm chia sẻ cho những hoàn cảnh khó khăn,… Câu nói nhẹ nhàng mà thấm thía: “Nếu bạn khó khăn, cứ lấy một phần; nếu bạn ổn, xin nhường cho người khác.” Nhưng vẫn lấn cấn nỗi buồn khi thấy có những người còn tham lam, nỡ lòng “cướp” phần của những người nghèo, đánh cắp lòng nhân đạo của người khác. Họ dư tiền nhưng thiếu (hoặc không có) lòng tự trọng.
Thiên Chúa bất biến, trước sau như một, mãi mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-3) Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ, không muốn ai phải hư mất. Mỗi chúng ta đều có chung nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài qua cách sống của mình để tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.” (Tv 118:14)
Đức Kitô Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Đó là công trình vĩ đại vô song của Thiên Chúa. Vì thế, các tín nhân hiệp nhất đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24) Chúa Giêsu đã phục sinh, trao ban cho nhân loại mọi thứ để có thể đạt tới Cõi Trường Sinh.
Vui mừng phấn khởi, Thánh Phêrô xưng tụng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết.” (1 Pr 1:3-5) Đó là lời chứng của một người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác. Thánh Phêrô là nhân chứng sống, để nhờ đó, chúng ta có thể kiểm chứng và chứng thực đức tin của mình.
Vừa nhắn nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1 Pr 1:6-7) Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, nhưng miệng nói tín thác vào LCTX mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, nói như vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích mà thôi, bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và 26)
Đúng như vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã minh định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Thánh Phêrô lý giải rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1 Pr 1:8-9)
Ga 20:19-31 là trình thuật Tin Mừng quen thuộc nói về tình trạng “cứng lòng tin” của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, chính nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới đức tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh hằng năm.
Rất có thể tông đồ Tôma là người sống thực tế, cần cụ thể, cái gì cũng phải rạch ròi, không thích mơ hồ hoặc lập lờ nước đôi. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa thực sự tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta đôi khi vẫn “nghiêng ngả” Trong khi gặp gian khổ, và chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu xám” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu đỏ” đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì? Đến lượt chúng ta cần kiểm chứng chính mình ngay trong lúc chống chọi với con virus Vũ Hán giữa “mùa dịch” này.
Thánh sử Gioan kể: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng ớn lạnh xương sống lắm. Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy, tỏ tường chứ không nghe kể lại. Rồi Ngài lại nói: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Thật tuyệt!
Tuy nhiên, lúc đó không có mặt tông đồ Tôma, cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về việc thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Coi bộ “căng” dữ nha! Nhưng không, chuyện đâu còn có đó.
Một tuần sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín mít. Ngày xưa họ “cách ly” vì sợ người Do Thái. Ngày nay chúng ta “cách ly” vì sợ dịch bệnh. Lúc đó Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ôi chao, ngại hết sức! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê! Ngại lắm, thế nên ông vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chắc là ông không dám kiểm chứng bằng tay đâu. Đó cũng là một dạng thú tội. Chúa Giêsu nói với ông: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và Ngài cũng đang nói với mỗi tín nhân như vậy trong hoàn cảnh của chúng ta ngày nay.
Sau khi Chúa Giêsu sống lại, cả hai lần Ngài hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần,” khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh trao ban cho các tín nhân.
Thánh sử Gioan cho biết thêm: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân.” (Gr 17:7)
Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa – Thiên Chúa tình yêu, giàu lòng thương xót, và yêu thương nhân loại đến cùng. (Ga 13:1) Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót. Cũng chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt, [2] và rồi ngay tại chân Thập Giá, khi đối diện với Ông Giêsu trên Núi Sọ vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, ông đã phải thú nhận rằng Chúa Giêsu “là Con Thiên Chúa, là người công chính.” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47) Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi.
Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Ngài, vì Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, là con đường, là sự thật và là sự sống. (Ga 14:6)
Năm nay, niềm vui phục sinh không tưng bừng bề ngoài, nhưng vẫn rộn rã trong lòng mỗi tín nhân. Lời Thầy Giêsu nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại vẫn âm vang: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Lời này là động lực thúc đẩy mạnh mẽ giúp chúng ta tiến bước lữ hành cho đến cuối đường đời, khi hoàn tất mọi sự, đồng thời là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh đời đời.
Lạy Thiên Chúa chí thánh hằng thương xót, xin hướng chúng con về phía Ngài, nơi có sự bình an đích thực; xin giúp chúng con vững tin vào Con Một Ngài, Đấng đã chết và sống lại để chúng con được sống viên mãn. Cúi xin Ngài gia ân thương xót chúng con và toàn thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
—–
[1] Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa chiêm tinh tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc. Người Công giáo không tin, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định mọi sự. [2] Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô (Rôma).SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, một thời đại mới bắt đầu. Vì thế, Chúa Nhật II Phục Sinh gợi lên:
Cv 2: 42-47
– Trước hết, cuộc sống mẫu mực của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.
1Pr 1: 3-9
– Đoạn, cuộc sống nội tâm của người Ki-tô hữu thường hằng được biến đổi bởi niềm hy vọng bao la.
Ga 20: 19-31
– Sau cùng, các Tông Đồ đã thay đổi, từ thất vọng và nghi ngờ đến niềm vui và đức tin, khi gặp gỡ Đức Giê-su đã sống lại và đang sống.
BÀI ĐỌC I (Cv 2: 42-47)
Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Tác phẩm này của thánh Lu-ca, tiếp theo sau sách Tin Mừng của ngài, cấu tạo nên, cùng với các thư của thánh Phao-lô, chứng liệu cốt yếu về cuộc sống của Giáo Hội tiên khởi.
Thánh Lu-ca là một lương dân gốc Hy-lạp trở lại đạo. Thánh nhân kinh ngạc trước sức lan tỏa quá nhanh chóng của Ki-tô giáo. Vì thế, thánh nhân tìm kiếm lời giải thích và khám phá câu giải đáp: trước tiên, ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (sách “Công Vụ Tông Đồ” cũng được gọi là sách “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”), nhưng cũng ở nơi lời chứng mạnh mẽ của các Tông Đồ và đời sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.
Thánh Lu-ca phác họa ba bức tranh mô tả đời sống của các Ki-tô hữu tiên khởi, chắc chắn được lý tưởng hóa khá nhiều, nhưng thánh nhân muốn đưa ra một khuôn mẫu và thúc đẩy mọi người cùng nhau ra sức sống lý tưởng Ki-tô giáo. Thật ra cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, cộng đồng Giê-ru-sa-lem, đã sống mạnh mẽ niềm tin của mình, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của các Tông Đồ.
Vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A này, chúng ta chiêm ngắm bức tranh thứ nhất (Cv 2: 42-47), bức tranh thứ hai (Cv 4: 32) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm B, và bức tranh thứ ba (Cv 5: 12) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C. Bằng những đường nét đặc trưng, thánh Lu-ca tổng hợp bầu nhiệt huyết của cộng đoàn Ki-tô hữu cách tuyệt vời: chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ, luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Tác giả trở lại trên những điểm khác nhau này, theo nguồn cảm hứng của mình, chứ không theo trình tự hợp lý.
1. Chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ
Thánh Lu-ca đặt ưu tiên giáo huấn của các Tông Đồ. Chính trên lời chứng của các ngài mà niềm tin của Giáo Hội tựa vào. Giáo huấn này, được lặp đi lặp lại không ngừng, sẽ là nền tảng của việc soạn thảo các sách Tin Mừng sau này.
“Mọi người đều đem lòng kính sợ, vì thấy các Tông Đồ làm nhiều việc phi thường, cùng nhiều dấu lạ”. Quả thật, sách Công Vụ kể lại một số những việc phi thường để bảo đảm cho giáo huấn của các ngài. Những phép lạ này cho thấy có một sự nối kết liên tục giữa hoạt động của các Tông Đồ và hoạt động của Đức Giê-su.
2. Luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ
Chắc chắn thánh Lu-ca mượn thuật ngữ “hiệp thông” (“koimonia”) từ thánh Phao-lô, vì từ ngữ này chúng ta không bao giờ gặp thấy trong các sách Tin Mừng, nhưng thánh Phao-lô sử dụng nhiều lần. Vả lại, thánh Lu-ca sử dụng từ ngữ này chỉ một lần ở nơi này.
Từ “hiệp thông” này, trước hết chỉ ra mọi người “đồng tâm nhất trí”. Sách Công Vụ nhấn mạnh các Ki-tô hữu tiên khởi “một lòng một ý” với nhau. Từ “hiệp thông” này cũng hàm chứa ý tưởng tượng thân tương ái: “Họ để mọi sự làm của chung; họ đem bán của cải đất đai, lấy tiền chia cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Thánh Lu-ca sẽ khai triển “cộng đoàn bỏ mọi sự làm của chung” này trong bức tranh thứ hai: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4: 32). Chúng ta đừng quên rằng thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về đức nghèo khó vật chất. Về khía cạnh này, thánh nhân nhấn mạnh giáo huấn của Đức Ki-tô và thích nhắc nhớ rằng lý tưởng Tin Mừng đã được thực hành ngay từ buổi đầu.
Như đa số các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem có lẽ đa số thuộc tầng lớp xã hội nghèo hèn, trong đó vài người thậm chí sống trong cảnh túng thiếu, như trường hợp các bà góa, nếu không được trợ cấp sẽ phải lâm cảnh ngặt nghèo như được nêu lên sau này (Cv 6: 1).
Thật ra, truyền thống Do thái giáo đã thực hiện tình tương thân tương ái như vậy rồi, đặc biệt ở Giê-ru-sa-lem. Hễ vào áp lễ sa-bát, người ta phân phát thực phẩm cho những người nghèo khổ nhất. Có lẽ cộng đoàn Ki-tô hữu được gợi hứng từ tổ chức này và đã mở rộng ra cho đến việc đặt mọi sự đều là của chung và hưởng theo nhu cầu hằng ngày. Nhưng điều cốt yếu chính là tinh thần mới chi phối việc tương thân tương ái triệt để này: tinh thần huynh đệ chân thật ở đó không còn có những phân chia giai cấp xã hội và ở đó mọi người đều coi nhau là “anh chị em”.
Cuối cùng, ở nơi sự hiệp thông mà những Ki-tô hữu tiên khởi sống, chúng ta nhận thấy một sắc thái cánh chung: chờ đợi cuộc tụ họp sau cùng. Đây là niềm hy vọng không thể nào chối cãi ở giữa lòng thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi.
3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh
Các tín hữu “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh”, đây là diễn ngữ thánh Lu-ca thường dùng để chỉ “bàn tiệc Thánh Thể”.
Việc cử hành này, diễn ra trong các tư gia, bao gồm cầu nguyện và rao giảng (chúng ta biết như vậy nhờ những đoạn Công Vụ Tông Đồ khác). Thánh Lu-ca phân biệt rất rõ nét giữa bữa ăn hằng ngày với “lễ bẻ bánh”: “Còn lễ bẻ bánh thì làm tại tư gia, và họ ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ”. Tuy nhiên, tự nguồn gốc, dường như bàn tiệc Thánh Thể đã được liên kết với một bữa ăn. Chúng ta đừng quên rằng vào lúc đó những Ki-tô hữu đầu tiên đều xuất thân từ Do thái giáo; ấy vậy, bữa ăn Do thái luôn luôn mặc lấy tính chất thánh thiêng, nhất là bữa ăn tối, bữa ăn chính trong ngày. Sẽ không còn như vậy nữa khi những người Ki-tô hữu gốc lương dân gia nhập Giáo Hội mỗi ngày thêm đông. Những bữa ăn này mất đi tính chất thánh thiêng của nó; sẽ còn có những lạm dụng như thánh Phao-lô tố cáo tại cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô (1Cr 11); vì thế, phải tách riêng bữa ăn của Chúa ra khỏi bữa ăn thường ngày. Sự phân biệt này được thực hiện trong bản văn này của thánh Lu-ca. Ở nơi khác, thánh ký cũng kể ra việc chuẩn bị bàn tiệc Thánh Thể kèm theo việc chay tịnh: “Một hôm, đang khi họ cử hành việc thờ phượng Chúa và ăn chay…” (Cv 13: 2).
Thánh Lu-ca nhấn mạnh niềm vui ngự trị ở nơi các bữa ăn này. Dụng ngữ có một âm vang tôn giáo. Đây cốt yếu là một niềm vui thánh thiện chứ không niềm vui phàm tục (vả lại, những bữa ăn này thì đạm bạc do cộng đoàn đóng góp). Chúng ta biết rồi, trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca luôn luôn nhấn mạnh niềm vui mà lời loan báo Tin Mừng đem lại. Trong sách Công Vụ cũng thế, đây thật sự là niềm vui thời thiên sai.
4. Cầu nguyện không ngừng
Cuối cùng, trong đời sống Ki-tô hữu chính thống, điểm nòng cốt là cầu nguyện: “Họ chuyên tâm cầu nguyện”. Trước hết, đây là những lời cầu nguyện đặc thù Ki-tô giáo được cất lên giữa cộng đoàn. Nhưng ở đoạn cuối, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc các Ki-tô hữu tham dự những kinh nguyện hằng ngày với các tín hữu Do thái trong Đền Thờ: hai lần mỗi ngày đều có những kinh nguyện và lễ toàn thiêu trên bàn thờ vào lúc chín giờ sáng và vào lúc ba giờ chiều.
Ngay liền sau đoạn văn hôm nay, thánh Lu-ca viết: “Một hôm, ông Phê-rô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều). Vào lúc này, chưa xảy ra đoạn tuyệt giữa Do thái giáo với Ki-tô giáo. Trái lại, tâm tình của các Ki tô hữu tiên khởi tiếp nối các tín đồ Do thái giáo khi đặt Đức Giê-su vào cương vị của sự nối tiếp này. Các Tông Đồ chân thành tự đặt mình giữa anh em đồng đạo Do thái giáo của mình: “Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến”. Thánh Lu-ca kết thúc bức tranh thứ nhất về đời sống của người Ki-tô hữu tiên khởi bằng cách ghi nhận rằng mỗi ngày số lượng người gia nhập đạo càng gia tăng: “Và Chúa đã cho số người được cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày thêm đông”.
BÀI ĐỌC II (1Pr 1: 3-9)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô. Thư này sẽ được tiếp tục đọc trong suốt bốn Chúa Nhật liên tiếp. Thánh Phê-rô viết thư này gửi cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, họ gặp phải những khó khăn và trải qua những gian nan thử thách. Vì thế, vị thủ lãnh Giáo Hội viết thư để khích lệ họ. Thư này, thánh nhân viết từ Rô-ma vào khoảng năm 63 hay 64, cốt là một loạt những lời khuyên bảo luân lý, đặt nền tảng trên những nhắc nhở đạo lý.
Hôm nay, chúng ta đọc phần đầu của Thư này. Ngay sau địa chỉ và lời thăm hỏi thường lệ, chủ đề là niềm hy vọng xuất phát từ cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô.
1. Chúc tụng Thiên Chúa, Thân Phụ Đức Giê-su
Thánh Phê-rô bắt đầu lời khuyến dụ của mình với biểu thức đặc thù Do thái: “Chúc tụng Thiên Chúa!”. Thánh Phao-lô cũng bắt đầu thư thứ hai gửi các tín hữu Cô-rin-tô và thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô với cùng biểu thức “chúc tụng” như vậy. Lời chúc tụng của dân Ít-ra-en là tiếng kêu đầy thán phục và biết ơn đối với những ân huệ Thiên Chúa ban. Việc con người chúc tụng Thiên Chúa xem ra khác thường. Thật ra, lời chúc tụng bao gồm một chuyển động kép: những ân ban đến từ Thiên Chúa và tiếng reo vui của người thụ hưởng.
Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa của các tổ phụ là Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp, thì vị Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa, “Thân Phụ Đức Giê-su”. Thiên ân đầu tiên đáng chúc tụng là “ơn tái sinh” mà cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô ban cho chúng ta. Chắc chắn đây là lời ám chỉ trực tiếp đến phép Thánh Tẩy. Lời mào đầu này rất giống với bài giảng về phép Thánh Tẩy, cho dù văn mạch có một tầm mức khái quát hơn.
2. Niềm hy vọng Ki-tô giáo
Đối tượng của niềm hy vọng Ki-tô giáo là “gia tài không thể hư hoại”. Diễn ngữ: “gia tài” trong Cựu Ước được dùng để chỉ trước tiên Đất Hứa, đất Ca-na-an, sau đó được hiểu theo nghĩa bóng là vương quốc thời Thiên Sai, vương quốc sắp đến; từ nay, vương quốc này được dành sẵn cho các Ki-tô hữu. Đây là một niềm hy vọng “sống động” được đặt nền tảng trên sự kiện Phục Sinh của Đức Giê-su.
Thánh Phê-rô mượn hình ảnh quân sự: “được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ,” như người lính canh gìn giữ thành phố khỏi mọi cuộc tấn công từ bên ngoài.
“Hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ tỏ bày ra trong ngày sau hết”. Viễn cảnh cánh chung này, được xem như rất gần, là một nét đặc trưng đối với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi, họ sống trong niềm hy vọng vào ngày Quang Lâm của Đức Ki-tô sắp đến.
Sau khi đã đặt những nền tảng của niềm hy vọng và xác định đối thượng của nó, vị thủ lãnh Giáo Hội chỉ cho thấy những thành quả của nó: đức kiên vững trong những gian truân và thậm chí niềm vui khôn tả ở giữa những gian nan thử thách.
3. Kiên vững trong đức tin
Thánh Phê-rô mời gọi các tín hữu của mình, khi đối mặt với “trăm chiều thử thách,” phải kiên tâm bền chí trong đức tin. Những gian nan thử thách này được xác định ở Cv 3: 15-18. Đức tin được tinh luyện khi trải qua lò đau khổ. Đức kiên vững của anh em sẽ là nguồn mạch “vinh quang và danh dự”, khi “Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện” vào ngày chung thẩm. Vì thế, đối với người Ki-tô hữu, thời gian thử thách vẫn là thời gian chan chứa niềm vui.
4. Đức tin và niềm vui
Thánh Phê-rô liên kết một cách mạnh mẽ niềm vui và đức tin. Thánh nhân nhắc lại điều này đến hai lần: “Anh em hãy hớn hở vui mừng” và “lòng chan chứa niềm vui khôn tả”. Niềm vui phát sinh từ niềm xác tín vào ơn cứu độ, ơn cứu độ này là ân huệ của Chúa Cha và được cuộc Phục Sinh của Đức Kitô đảm bảo. “Lời chúc tụng” ban đầu cũng đã xác định như vậy.
Thánh Tông Đồ đã sống trong ân nghĩa mật thiết với Đức Giê-su, vì thế thánh nhân hiểu rõ hơn ai hết rằng một niềm tin mà dựa trên lời chứng của kẻ khác thì quả thật khó khăn hơn nhiều. Vì thế, thánh nhân tỏ lòng kính trọng niềm tin của những tín hữu: “Anh em chưa bao giờ thấy Người, mà vẫn yêu mến, chưa được giáp mặt, nhưng lòng vẫn kính tin”. Đó cũng là lời chúc phúc của Đức Giê-su mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời chúc phúc khác: “Phúc thay cho anh em khi người ta bách hại anh em vì Thầy”, được ẩn chứa trong những lời khuyến dụ của thánh Phê-rô và chạy xuyên suốt bức thư này. Đây là niềm vui đặc thù của người tín hữu, niềm vui mà thánh Phao-lô kêu gào giữa những gian nan thử thách của mình. Chesterton nói: “Niềm vui là bí ẩn vĩ đại của Kitô giáo”.
TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)
Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Giê-su của niềm tin đích thật là Đức Giê-su của lịch sử. Các Tông Đồ chứng thực biến cố Phục Sinh, hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, các ngài được hưởng một sự kiểm chứng vài ngày sau đó.
Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc bài trình thuật thành hai giai đoạn: Chúa Giê-su hiện ra cho mười Tông Đồ đúng vào chiều Phục Sinh (20: 19-25), và Ngài hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó (20: 26-29).
1. Đức Giê-su phục sinh hiện ra cho mười Tông Đồ (20: 19-25)
“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời điểm này rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki-tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giê-su xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.
Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì vắng mặt thánh Tô-ma, thánh nhân xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc tụ họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ông để thông báo cho các ông biết những biến cố vừa mới xảy ra: khám phá ngôi mộ trống, chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời chứng của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la quả quyết là mình đã đích thân gặp Đức Giê-su và Ngài đã nói với bà.
Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, còn cả sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”. “Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ những nhà lãnh đạo Do thái tại Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, phải chăng bây giờ họ đang truy lùng các môn đệ của Ngài?
Và này Đức Giê-su bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa đóng then cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.
A- Bình an cho anh em
Đây là lời chào hỏi thông thường theo tập quán của dân Ít-ra-en (“Shalom”), nhưng lời chào từ môi miệng của Đấng Phục Sinh không bao giờ đơn thuần là lời chào hỏi thông thường. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài mà Ngài đã hứa cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nản và thất vọng. Ngài đem đến sự bình an qua sự hiện diện thân tình của Ngài và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một mình trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài.
Để giúp họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như chứng thực thân thể phục sinh của Ngài đồng nhất với thân thể khổ nạn của Ngài.
Ở đây chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ; mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ, nhưng là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, mang lấy những vết thương của cuộc khổ hình. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.
Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi thánh Lu-ca, trong bài trình thuật song đối, viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem” mà không kể ra vết thương ở cạnh sườn của Ngài. Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể ra chi tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; thánh nhân đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân huệ cuối cùng của Chúa Ki-tô sau khi đã chết. Thánh Gioan đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về việc sinh hạ Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy và phép Thánh Thể. Ở trong bài trình thuật hôm nay, thánh Gioan nhấn mạnh thêm một lần nữa. Nói một cách chính xác, Giáo Hội sẽ sinh ra, vào buổi chiều Phục Sinh, trong hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.
B- Sai đi thi hành sứ mạng
Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này của con người Đức Giê-su: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “Tông Đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này bởi vì Ngài là Đấng duy nhất được Chúa Cha sai đi, nhưng bây giờ Đấng Phục Sinh lại sai các môn đệ của mình ra đi tiếp nối sứ mạng của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Như vậy, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha là nguồn sai đi của Chúa Giê-su, còn Đức Giê-su Phục Sinh là nguồn sai đi của các môn đệ Ngài.
Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên cho những người môn đệ này. Họ đang giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại trong sợ hãi; ấy vậy, Đức Giê-su truyền lệnh ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ và loan báo Tin Mừng cho hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa.
Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giê-su công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19). Tuy nhiên, việc sai đi thi hành sứ mạng trong Tin Mừng Gioan còn long trọng hơn nhiều trong Tin Mừng Mát-thêu.
C- Hơi thở Thần Khí
Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7; Kn 15: 11), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Chúa Giê-su làm cho các môn đệ Ngài trở thành những con người mới và ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi, quyền này cho đến nay chỉ thuộc về Thiên Chúa.
D- Tha thứ tội lỗi
Thánh Gioan diễn tả quyền này theo biểu thức sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi” (Mt 16: 19; 18: 18).
“Tha thứ hay cầm giữ”, “cầm buộc hay tháo cởi” là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay buộc. Các biểu thức này chỉ ra rằng các vị lãnh đạo Do thái được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giê-su mở rộng vô cùng tận ý nghĩa của biểu thức này. Cốt yếu là quyền tha tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng hiểu lầm biểu thức Do thái này. Biểu thức Do thái có chủ ý sử dụng cặp đối xứng giữa khía cạnh khẳng định (tha thứ) và khía cạnh phủ định (cầm giữ), khía cạnh thứ hai không có cùng giá trị với khía cạnh thứ nhất, nhưng nhằm mục đích tăng cường khía cạnh thứ nhất. Vì thế, biểu thức này không hệ tại ở nơi việc hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngoài ra, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.
Tha thứ tội lỗi là thành quả cốt thiết phát sinh từ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Kitô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giê-su nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 45-47).
2. Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma (20: 26-29)
Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết, thánh nhân đã dõng dạc tuyên bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giê-su một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ ông từ chối tin vào sự Phục Sinh nếu không có bằng chứng được ông đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính bản thân của chính chúng ta: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.
A- Đức tin của thánh Tô-ma
Đức Giê-su động lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hỉ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải lặp lại những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới bước chân vào ngôi mộ: “Ông đã thấy và đã tin”. Cũng vậy, thánh Tô-ma đã ngộ ngay lập tức trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy mà không cần phải kiểm chứng. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.
B- Đức tin của thánh Tô-ma và đức tin của các tín hữu mọi thời
Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Thử hỏi còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc ông trong nỗi thất vọng và phiền muộn.
Chúa Giê-su nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”. Đoạn, nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như ông, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông những tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Nhưng lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, trước hết, rõ ràng dựa trên lời chứng của Nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.
Lm. Jos DĐH.
Những quan tâm của con người chắc không phải là cơm áo gạo tiền, những ưu tư của xã hội hẳn cũng chẳng đơn giản là sức khoẻ, môi trường, nhưng liệu có phải là hạnh phúc, là niềm vui gia đình, là đất nước hùng mạnh không ? Biết bao vấn đề xã hội, gia đình, không lời giải, và ít nhiều giải pháp tình thế: cắn răng chịu vậy, nín thở qua cầu, hãy bình tĩnh, sau cơn mưa trời lại sáng … ! Đồng ý rằng: vui một đêm, người ta có thể thành tiên ; phiền một đêm, có thể thành cú. Dù là lý thuyết hay thực hành, đối diện với khổ đau, thất bại, mấy ai đủ lạc quan, sống dửng dưng vô tư như đứa trẻ lên ba ?
Đại dịch Covid-19 thật khủng khiếp cho cả thế giới: người giầu, người nghèo, người tài giỏi, đất nước văn minh, lạc hậu, đều ít nhiều phải hoang mang, hụt hẫng. Sự kiện Đức Giêsu chịu chết và sống lại, không làm cho người Do-thái, hay nhân loại phải lo lắng sợ hãi như “đại-dịch”, mà đúng, là dấu chỉ lòng thương xót được Thiên Chúa rộng ban cho vũ trụ vạn vật này. Dịch bệnh lâu mau rồi cũng qua đi, tuỳ theo mỗi người, hoặc từng quốc gia sẽ thấm thía về bài học: tự nhiên và siêu nhiên, gia đình và xã hội, tôn giáo hay vô thần, tất cả chỉ có ý nghĩa trong chữ “tình” chứ không phải chứ “lý”. Đấng Kitô phải trải qua nhiều đau khổ, sự chết, và sống lại, Ngài đến với các học trò trong bầu khí họ đang liên đới cầu nguyện, Ngài không than trách, Ngài còn cho nhân loại hiểu: “bình an của Đấng Phục Sinh”, mới thực là cần kíp.
Từ kinh nghiệm nơi cuộc sống, chúng ta có thể nói: mỗi vết thương đau, đều là một sự trưởng thành và mất mát, nhưng chúng sẽ dạy ta về giá trị của mọi thứ. Đức Giêsu chịu chết và mai táng trong mồ là điều day dứt với các môn đệ, Đức Kitô từ cõi chết sống lại, Ngài đến đang khi các học trò bên nhau hội họp, cửa đóng then cài, phản ánh con người thật của các ông, Đấng Phục Sinh hẳn còn muốn khơi gợi lại thông điệp: Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót. Đấng Phục Sinh chào chúc, ban bình an, ban Thánh Thần tình yêu cho các học trò, khác xa với suy nghĩ cũng như mong chờ của các ông, đó là “công lý báo thù”. Đấng Phục Sinh cho các ông xem: tay chân và cạnh sườn, các ông vui mừng nhận ra Thầy đã sống lại. Trời cao, đất rộng, nhưng quan trọng hơn là mỗi người nhận ra tình yêu của Đấng, hằng cho chúng ta cơ hội đạt tới hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.
Bằng suy nghĩ tự nhiên và cũng không phải vô tình, chúng ta sẽ thú vị hơn khi nhận ra: tại sao “Bình an của Đấng Phục Sinh”, chính là khởi đầu, là trọng tâm, dẫn dắt các môn đệ đi trọn vẹn sứ mạng theo Đức Kitô. Tại sao người xưa lại nói: áo gấm thêu hoa, chẳng bằng tặng than củi giữa mùa đông tuyết lạnh. Bình an và tình yêu hiệp thông, không thể thiếu nơi Thầy Giêsu trước sứ mạng cứu độ. Bình an của Đấng Phục Sinh, cũng sẽ là cội nguồn từ Thiên Chúa là Cha chảy tràn đến các môn đệ, đến với tất cả những ai tin và theo Đấng Kitô. Tiền vàng, lý lẽ, sức mạnh binh đao, cũng không thể thiết thực cho bằng sự ấm áp của tình yêu thương giúp ta vượt qua giá lạnh. Bình an của Đấng Phục Sinh đến với các môn đệ sẽ mãi còn mới và thiết thực, trí lòng các ông vui, hạnh phúc, nhưng chắc chắn nước mắt các ông phải tuôn trào.
Bình an của Đấng Phục sinh nối kết với tình yêu Thánh Thần, buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần hôm đó, Đấng sống lại từ cõi chết đã mở lòng thương xót Chúa cho các học trò, cho riêng Tôma, và cho toàn thể nhân loại hôm nay. Đấng Kitô đã cho các môn đệ cảm nhận mầu nhiệm tử nạn phục sinh, cho ông Tôma nhìn tay chân, và mời ông đặt ngón tay ông vào cạnh sườn Chúa. Bình an của Đấng Kitô sẽ còn thức tỉnh nhân loại: “chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Đấng Phục Sinh biết rõ các môn đệ, và cả chúng ta hôm nay, mỗi người không thể sống mà thiếu tình yêu và lòng thương xót Chúa. Mỗi người không thể tồn tại khi thiếu bình an và Thánh Thần tác động, Đấng Kitô có lý do để nhắc với từng người về điều cần thiết: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Nhân tố quyết định khi xem xét một người, chính là tâm hồn, Đấng Phục Sinh sẽ không ban vật chất, quyền lực, không xét công trạng của ta. Đấng Phục Sinh sẽ ban bình an, Thánh Thần tình yêu cho con người, qua đó mỗi người hãy sử dụng tự do của ơn ban mà cảm nhận lòng thương xót Chúa. Tình yêu, niềm vui, hoặc ơn ban, hạnh phúc, tuỳ thuộc mỗi người nhận lãnh, cảm nếm. Đấng Phục Sinh trở nên dấu chỉ vĩ đại cho các học trò, cho những ai sống hiệp thông tín thác trong cầu nguyện. Gia đình nào chẳng có khổ đau, xã hội nào mà không có bất công, thời đại nào mà chẳng có hận thù, chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh … Chỉ có tình yêu, lòng thương xót Chúa thì không thay đổi, chỉ có “bình an của Đấng Phục Sinh”, là phương dược hữu hiệu Chúa đang thức tỉnh những ai muốn đạt tới hồng ân cứu độ. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường
Sau biến cố đau thương của Thầy Chí Thánh Giêsu trên đỉnh đồi Can vê cũng như cái chết tất tưởi và việc mai táng vội vã trong huyệt đá đã khiến cho các phụ nữ một đêm thấp thỏm không ngủ được và đã ra mồ từ sáng sớm để mong được ướp xác Thầy lại cho xứng đáng là nghĩa cử yêu thương.
Giờ phút Đức Giê-su tắt hơi thở, cũng chính là lúc các môn đệ, các phụ nữ và Mẹ của Ngài đã cảm nhận thật sâu lắng về nỗi đau buồn man mác nhớ thương đến dường nào! Sự lo lắng và đau buồn ấy không chỉ nghĩ đến Đức Giê-su mà có lẽ cũng phải nghĩ đến thân phận của kiếp nhân sinh.
Đức Giê-su đã chết! Tất cả nghĩ rằng, những phép lạ làm rạng danh cho ta nay đã kết thúc. Tất cả sự thương mến với mỗi người giờ đây không còn. Niềm vui nơi Thầy Giê-su đã chấm hết.
Nhưng không, chính Ngài đã đi trọn con đường theo lệnh truyền của Chúa Cha và đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”(Lc 24,47). Ngài trở thành con đường Cứu độ và lẽ sống cho chúng ta. Ngài trở thành niềm vui cho những ai đang khắc khoải kiếm tìm, không chỉ nơi giây phút thử thách đau buồn hiện tại mà còn niềm hoan lạc của đời sống vĩnh cửu mai sau.
Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của tình yêu Cứu độ. Mầu nhiệm của tình thương hải hà trong việc hiến tế làm giá chuộc cho muôn người (x. Mc 10,45). Mầu nhiệm ấy được diễn tả nơi chính Con Một yêu dấu của Chúa Cha, đó chính là Đức Giê-su Chúa chúng ta: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vì vậy, con người luôn khao khát kiếm tìm chân lý là ơn Cứu độ và Thiên Chúa hằng tìm kiếm con người để ban ơn Cứu độ.
- Thiên Chúa trao ban tình yêu Cứu độ
Đức Giê-su Phục sinh đem đến niềm vui tràn ngập cho bà Maria Ma-đa-lê-na và các Phụ nữ yêu mến Ngài, họ đang sống trong sự tuyệt vọng, buồn chán và khổ đau.
Đức Giê-su Phục sinh đồng hành với hai Môn đệ trên con đường EMMAU trong nỗi tuyệt vọng của họ. Chính Đấng Phục sinh đã khai trí mở lòng để họ có thể nhận ra Chúa. Ngài đồng bàn với họ và đọc lời chúc tụng, bẻ bánh. Mắt họ vừa bừng sáng ra và đã nhận ra Thầy sống lại. Lúc này niềm vui vỡ òa, tan biến sự mệt mỏi và buồn chán (x. Lc 24, 25 -32).
Đức Giêsu Phục sinh đem đến cho các Môn đệ sự bình an đích thực khi họ sợ hãi và lo âu trong căn phòng kín. Hãy nhận ra Chúa của mình: Thầy đây, đừng hoảng sợ … Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! (x. Lc 24,38.39). Đừng thất vọng, đừng buồn phiền, đừng đi với Thầy như cách suy nghĩ của chúng con nhưng phải nhận ra niềm vui Cứu độ của Thầy và Thầy ở cùng các con mỗi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20).
Đức Giê-su Phục sinh đem đến cho chúng ta tình yêu Cứu độ trong mọi thử thách. Nếu các nhân vật trong Tin Mừng có được niềm vui Cứu độ thì cũng cần trải qua con đường đau khổ, tuyệt vọng, chán nản và lo âu. Thử hỏi ai trong cuộc đời chúng ta không một lần đau thương, ai không một lần bi thảm. Nhưng niềm vui Cứu độ chỉ tìm thấy nơi những ai dám hòa quyện mọi biến cố của mình với biến cố khổ đau của Đức Kitô. Ngang qua, đoạn trích của Thư Phaolô gửi cho ông Timôthê như sau: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (2,4). Hay trong sách Isaia đã viết: “Hãy đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6). Thiên Chúa hằng tìm kiếm con người trước, đặc biệt là tội nhân để thi thố tình yêu và ơn Cứu độ.
Cũng như Giakêu trèo lên cây sung để được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng ông không biết trước đó rằng, Thiên Chúa đã tìm kiếm ông. Khi đến nơi, Đức Giêsu ngỏ lời với ông: “Ông Giakêu, xuống ngay đi, bởi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà của ông”. Sự viếng thăm ấy, Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,5.10).
- Con người khao khát tình yêu Cứu độ
Dám chắc rằng, khi mỗi người chúng ta tin và phó thác vào Chúa Ki-tô là Thiên Chúa của mình đều được ơn tha tội và ơn tái sinh trong cuộc sống muôn đời: “Trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha mọi tội lỗi” (Cl 1,14). Chính sự mở lòng cho Chúa bước vào mà Người phụ nữ thành Samari được tha tội vì chị đã nhận ra Đức Ki-tô, Đấng sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống. Vì thế, chị đã xác tín ra niềm vui Cứu độ: “Tôi biết Đấng Messia, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến” (Ga 4, 25).
Đức Giêsu, Con Thiên Chúa quyền năng, không cứu chữa con người qua quyền lực của sự dữ, nhưng Ngài chọn con đường thập giá để Cứu độ nhân loại. Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận và kiếp khổ đau nhân sinh để đưa con người lên với Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương và là niềm vui Cứu độ. Chính tình yêu của Thiên Chúa đã thúc giục Đức Giê-su sẵn sàng hy sinh mạng sống để Cứu độ chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).
Chúa Giêsu có thể làm được tất cả mọi phép lạ mà chúng ta muốn, nhưng Ngài đã không làm và không chiều theo thị hiếu của con người. Chúng ta không thể hiểu Ngài theo ước muốn của mình và lòng tham của người khác, dù biết điều đó hợp ý mình và tốt đẹp đến đâu. Ngài đã không làm theo ý họ nhưng làm theo ý Thiên Chúa, là Cứu độ trần gian trong ý định nhiệm mầu của Chúa Cha.
Biết bao lần trong cuộc đời, chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại im lặng trước nhu cầu của con người? Không, Thiên Chúa không im lặng nhưng đang hoạt động với con người và ở với thế giới này trong từng biến cố xảy đến. Ước mong mỗi người chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Kitô Phục Sinh và đón nhận thập giá đời mình như là “thách đố” niềm tin và phó thác trong tay Ngài. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38). Ngài sẽ mang theo lời tha thứ và ơn chữa lành:“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).
Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con chúc tụng, ngợi khen tình yêu và quyền năng của Chúa. Chúa đã khải hoàn toàn thắng sự chết, là dấu chứng cho sự phục sinh của con người, và là niềm tin, lẽ sống của chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn biết nhận ra tình yêu Cứu độ trong mọi biến cố của cuộc đời. Amen!
ĐẠI DỊCH COVID TRỞ THÀNH ĐẠI LỄ PHỤC SINH
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).
Người ta thường nói: “Không thấy thì không tin”. Nghĩa là không thấy tận mắt và không sờ tận tay thì không tin là có. Như Tô-ma, không nhìn tận mắt, không sờ tận tay thì sẽ không tin Đức Giê-su phục sinh. Con người chúng ta là “người phàm mắt thịt”, dù vậy, chúng ta không chỉ nhìn bằng mắt, mà còn “nhìn bằng trí khôn” nữa. Tức là nhờ trí khôn, nhờ suy luận mà chúng ta biết được vần đề, hiểu về vấn đề. Nên không thể nói cách tuyệt đối rằng: “Những gì không thấy là không có”.
Cụ thể, bây giờ, có ai mà không tin có vi-rút Cô-rô-na không? Cô vi-rút này, mắt thường chúng ta đâu có thấy. Thế nhưng, nếu ta cứ đi chỗ này, chỗ kia; không đeo khẩu trang; không cách ly xã hội, liệu ta có an toàn không? Hay có thể lây nhiễm và chết như chơi. Dù không thấy vi-rút, nhưng qua những triệu chứng như thân nhiệt cao trên 37 độ; khó thở hay ho khan, chúng ta có thể biết là đã nhiễm vi-rút Cô-rô-na rồi, cần phải đến bệnh viện để cách ly và chữa trị.
Đến nay, bệnh dịch cô-vít 19 đã lan tràn trên khắp thế giới, đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa,…trên toàn thế giới và làm cho hơn vạn người tử vong và làm cho hàng tỷ người gặp những khó khăn trong cuộc sống. Người ta bị hạn chế ra đường và làm việc, do đó, cuộc sống đã khó khăn lại càng thêm khó khăn hơn. Không làm việc được, mà vẫn cứ ăn thì lấy tiền đâu mà sống.
Bởi thế, đại dịch cô-vit 19 này cho thấy rõ ràng rằng, dù mắt trần chúng ta không thấy nhưng chúng ta có thể thấy bằng trí khôn, bằng suy luận, bằng những dấu chỉ. Có thể nói qua đại dịch này, nó đã củng cố và làm cho chúng ta xác tín thêm niềm tin của chúng ta vào Chúa Phục Sinh. Đành rằng chúng ta không nhìn thấy tận mắt Đức Giê-su Phục Sinh, nhưng các Tông Đồ, đặc biệt là thánh tông đồ Tô-ma, Ngài đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay vào Thân Xác Phục Sinh của Đức Giê-su.
Lại nữa, cứ nhìn vào Giáo Hội Công Giáo chúng ta, từ ngày Đức Giê-su lên trời và Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đến nay, đã ngót nghét cũng gần 2000 năm rồi; dù có trải qua bao sóng gió thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội vẫn đứng vững. Điều đó có thể chứng minh Đức Giê-su đã không phục sinh hay sao? Trong Giáo Hội, Tin Mừng Phục Sinh vẫn còn vang vọng và nhất là trong thời buổi này, trong thời dịch Cô-vít 19 này. Có thể nói, chúng ta đang trở lại và sống đức tin như thời các Tông Đồ. Thời đó, chưa có Nhà Thờ, việc thực hành niềm tin là ở tư gia.
Đức Giê-su đã hiện ra nơi tư gia đã đóng kín, vì sợ người Do Thái (x. Ga 20,19). Ngày nay, Chúa cũng sẽ hiện ra với chúng ta trong gia đình, không phải vì sợ người nào mà là sợ con vi-rút Cô-rô-na.
Đức Giê-su đã hiện ra với các môn đệ trên biển hồ Ti-bê-ri-a, với khoảng cách khá xa. Đức Giê-su thì đứng trên bờ, còn các môn đệ thì đang đánh cá (x. Ga 21,1-14). Ngày nay, Chúa cũng sẽ có mặt với chúng ta khi chúng ta có khoảng cách với nhau – gọi là cách ly xã hội, vì tránh lây nhiễm Cô-vít.
Việc Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (x, Lc 24,13-35). Trong cuộc trò chuyện đó, Chúa đã “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”, làm cho “lòng hai ông bừng cháy lên” và tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh.
Trong kỳ đại dịch này, từ kinh thành Rô-ma đến các giáo xứ khắp nơi trên thế giới, lần đầu tiên đóng cửa, không có những thực hành niềm tin hay tham dự các buổi lễ trong Tuần Thánh, cũng như các Chúa Nhật, vì tránh tụ tập đông người, gây lây lan vi-rút. Cũng rất may là với thời đại viễn thông ngày nay, chúng ta còn có thể tham dự các Thánh Lễ trực tuyến trên mạng, tạm gọi là LỄ KHÔ, cũng phần nào khỏa lấp sự thèm khát “Tham dự Thánh Lễ” thường tình của người tín hữu ki-tô chúng ta.
Quả thật, điều đó không làm cho đức tin của chúng ta lung lay, trái lại đó còn là cơ hội tốt cho chúng ta có thì giờ để suy niệm và suy gẫm sâu hơn về đức tin của mình, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa ở nhà hay lên mạng đọc các bài chia sẻ.
Nhất là lần đầu tiên Đức Giê-su hiện ra ở gần ngôi mộ với các bà, Chúa nói: “Chị em đừng sợ. Về báo cho anh em của Thầy, để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ gặp Thầy ở đó” (x, Mt 28,10). Ngày nay, đã có bao nhiêu người đã chết vì Cô-vít 19, rất nhiều, nhiều đến nỗi, có nơi không có chỗ để quan tài; không đủ nơi để chôn; không đủ chỗ để thiêu nữa. Tin Mừng Phục Sinh đối với những người đã chết này là: “Chúng ta hãy báo cho họ biết, họ sẽ được gặp Chúa ở Thiên Đàng”.
Trong Chúa Nhật thứ II Phục Sinh, còn là Chúa Nhật của lòng thương xót Chúa, chúng ta cầu nguyện cho những người đã chết vì cô-vít 19 được hưởng lòng xót thương của Chúa, để họ có thể gặp được Chúa trên thiên đàng.
Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, trọng tâm với sự hiện ra của Đức Giê-su với Tô-ma. Chúa hiện đến mà không có Tô-ma, ông được các Anh em cho biết là Chúa đã phục sinh, nhưng Tô-ma dõng dạc nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người; nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi chẳng tin” (x. Ga 20,25).
Tám ngày sau, Đức Giê-su lại hiện ra và đến nói với Tô-ma rằng : “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy; đưa bàn tay ra đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (x. Ga 20,27). Chắc lúc đó Tô-ma cứng họng và run rẩy đặt ngón tay vào lỗ đinh; thọc bày tay vào cạnh sườn Chúa và ú ớ thưa : “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của con”. Giống như chúng ta kêu : “Giê-su ma lạy Chúa tôi” vậy.
Điều đó có nghĩa là Tô-ma đã nhìn thấy Chúa tận mắt và đã sờ đến Chúa tận tay và tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh. Thế nhưng, Đức Giê-su lại nói : “Vì thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (x. Ga 20,29).
Chúng ta là những người có phúc đó, vì chúng ta không được nhìn thấy Đức Giê-su Phục Sinh. Thánh Tô-ma đã thấy nên tin, còn chúng ta dù không thấy chúng ta vẫn tin. Thấy mà tin thì cũng bình thường thôi; không thấy mà tin mới khác thường; còn thấy mà không tin thì là …bất thường.
Chúng ta cũng có thể nói : thấy hay nhiễm cô-vít thì đừng có coi thường, lo mà đi cách ly và chữa trị, coi chừng “lên đường”; còn không thấy và tránh được lây nhiễm thì là phi thường và là phúc cho chúng ta đấy.
Vậy, qua đại dịch cô-vít 19 này, chúng ta càng thêm xác tín và khắc cốt ghi tâm cái phúc của mỗi người tín hữu ki-tô chúng ta. Đó là chúng ta tin vào Đức Giê-su Phục Sinh. Đức Giê-su đã thực sự phục sinh, Ngài là Đấng Ki-tô; là con Thiên Chúa và nhờ lòng tin đó mà chúng ta được sống nhờ Danh của Người. Với niềm xác tín đó, chúng ta mang lấy để sống vui, sống khỏe trong đại dịch cô-vít 19 này. Dù không thấy vi-rút, nhưng chúng ta cố gắng hết sức để tránh lây nhiễm và tránh làm lây lan vi-rút cho mọi người bằng cách đeo khẩu trang và cách ly xã hội, nhằm bảo vệ sự sống của mình cũng như tôn trọng sự sống của người khác; Làm cho Đại Dịch Cô-vít 19 này trở thành Đại Lễ Phục Sinh của chúng ta.
P.Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn Đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 20, 19 -31) hôm nay có thể rút ra được 04 ý chính sau đây:
- Thứ nhất : Chúa Giêsu phục sinh ban Bình An và Chúa Thánh Thần (củng cố niềm tin cho các môn đệ).
- Thứ hai : Đức tin của Tô-ma. (người mở đường cho đức tin được kiểm chứng ).
- Thứ ba : Chúa Giêsu mặc khải “Dấu chứng phục sinh”. ( Chúa Giêsu mặc khải Lòng Thương Xót).
- Thứ tư: Thế hệ có phúc (thế hệ có niềm vào Chúa Giêsu).
Theo đó, chúng ta thấy, Đoạn Tin Mừng (Ga 20, 19 -31) là Đoạn Tin Mừng về sự minh chứng “Dấu chứng phục sinh” của Chúa Giêsu- Kitô, một Ngội Vị Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.
Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh trình thuật cho chúng ta những chứng cứ Phục Sinh, chứ không mặc khải chi tiết Phục Sinh, bởi vì, Thiên Chúa đứng trên quyền năng của sự dữ và sự chết. Chúa giêsu sau khi hoàn tất cuộc Tử Nạn, thì phần Nhân Tính của Người hoàn toàn không lệ thuộc vào Nhân Tính của Người nữa, không thế lực nào làm chủ Người được nữa, vì Người đã trở về hoàn toàn với Thiên Tính của Người. Vì thế, trước lúc chịu Tử Nạn, Người đã loan báo sự phục sinh của Người, sự loan báo nầy đã làm cho các môn đệ bán tín, bán nghi. Nhưng, sự loan báo phục sinh của Chúa Giêsu chính là nằm trong chương trình Cứu Độ của Người.
Vì thế, Biến cố phục sinh không thể mặc khải tường tận nữa, mà là loan báo Ơn Cứu Độ, đó là niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Phục Sinh có nghĩa là” trở về ” với Thiên Chúa, vì Nguồn Sống duy nhất và vĩnh cửu chỉ có ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Rõ ràng, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu nói : ” Các người đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác… Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn và lửa không hề tắt”.
Rõ ràng, Chúa Giêsu không biểu lộ chi tiết Người Phục Sinh như chi tiết Người Tử Nạn là như vậy.Nhưng , sau khi phục sinh , Người vẫn hiện ra với các môn đệ ngay sau đó.
Và hôm nay, sau tám ngày, Người lại hiện ra cùng các môn đệ của Người để củng cố niềm tin cho các ông. Nhưng, điều đầu tiên là Người ban bình an và Ban Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ củng cố niềm tin cho các ông. Như vậy, “gia sản “ của Chúa Giêsu chính là sự “ Bình an và Chúa Thánh Thần”.
Ban bình an, bởi vì nếu không có ơn bình an của Chúa, người môn đệ sẽ chao đảo, dân gian có câu :” Cuộc đời là biển cả, còn thế nhân là con thuyền”. Thuyền mà đi trên biển cả, chắc chắn sẽ gặp phong ba bão táp. Vì thế, chúng ta cần có Chúa Giêsu và ơn Bình an của Người. Ơn Bình An chính là Chúa Cha, Đấng Tạo Dựng muôn loài và tình thương của Người.Đồng thời cũng là Ơn Cứu Chuộc, tức Ơn Giải thoát và Chúa Thánh Thần tức Ơn Thánh Hóa, biến đổi thế nhân trở nên giống Thiên Chúa, biến đổi nên Thánh. Như vậy, Ơn bình an và Thánh Thần thật quý giá biết bao đối với người môn đệ Đức Kitô.
Tiếp đến, thánh Tô-ma là người được mệnh danh là “kém tin”, nhưng thật ra, Đức tin của thánh Tô-ma là đức tin kiểm chứng. Bởi vì, nhờ Tô-ma mà đức tin vào Đấng Phục Sinh mới trở nên xác thực. Vì tuy là Chúa Giêsu quở trách ông, nhưng nhờ Đức Tin ấy, thánh Tô- ma trở nên nhân chứng của LÒNG THƯƠNG XÓT. Vì, sau sự kiện ấy, ai có đức tin như Tô-ma đều bị cho là “ vô phúc”. Vì, Chúa Giêsu không thỏa mãn tính hiếu kỳ của nhân thế, mà Người chỉ biểu lộ LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Cứu Độ nhân sinh , bởi vì Ngài muốn Thương Xót họ mà thôi. Vì, chiều lòng Tô-ma, Chúa Giêsu đã ban cho ông một cơ hội duy nhất cũng là cho muôn thế hệ. Và từ đây, cũng là”Dấu chứng phục sinh “ cho tất cả mọi thế hệ tin theo Đức Kitô.
Tất cả các đạo khác, người ta thường gọi chung là tôn giáo, nhưng riêng Kitô giáo không phải là một tôn giáo mà là” Một Con Đường“ dẫn đến Thiên Chúa là Nguồn Sống qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô. Bởi vì, chỉ có Thiên Chúa mới dẫn đưa nhân thế trở về với Nguồn Sống là chính Ngài mà thôi. Như chúng ta biết, chỉ có ba tôn giáo trên thế giới được gọi là ”Tôn giáo mặc khải” là: Dothai giáo, Hồi giáo, và Kitô giáo.
Kitô giáo gồm có Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, và Tin Lành. Đó là những người có cùng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, được gọi là Kitô giáo. Vậy Kitô giáo không phải là ”Tôn giáo” mà là “một con đường “ dẫn đến Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô dẫn đưa nhân thế về với Thiên Chúa. Vì vậy, Kitô giáo không gọi là tôn giáo vì là Đạo mạc khải qua Đấng Cứu Thế Giêsu – Kitô.
Như vậy, Đức“GIÊSU-KITÔ” có nghĩa là : Người có Thiên Chúa ở cùng và được xức dầu tấn phong. Và sự Phục Sinh của Người để dẫn đưa thế nhân về với Thiên Chúa.
Vì vậy, điểm thứ ba là Người đã tỏ “Dấu Chứng Phục Sinh “cho thánh Tô-ma, đồng thời là “Dấu Chứng Tử Nạn” của Người để loan báo Nhiệm Cục Phục Sinh là đích điểm của Ơn Cứu Độ đã hoàn tất. Chúa Giêsu cho thánh Tô-ma xem Năm Dấu Thánh vừa đáp ứng “ yêu cầu” của Tô-ma vừa biểu lộ LÒNG THƯƠNG XÓT nhân loại của Thiên Chúa. Vì, “Dấu Chứng Tử Nạn” cũng chính là “ Dấu Chứng Phục Sinh”.
Từ đó, mọi thế hệ TIN vào Chúa Giêsu qua sự “kiểm chứng “ của Tô-ma thì được Chúa Giêsu chúc phúc hơn Tô-ma, vì :” Tô-ma đã thấy Thầy, nên anh tin, phúc cho những kẻ không thấy mà tin “( Ga 20, 29).
Như vậy, lòng tin được kiểm chứng là lòng tin xác thực, nhưng lòng tin kiểm chứng thì không phải là ” ĐẶC TÍNH CỦA ĐỨC TIN “.
Lạy Chúa Giêsu là Đấng Thương Xót, trong Chúa chúng con tôn thờ, cảm tạ, tri ân, yêu mến cậy trông và tín thác chân thành vào Chúa. Vì, Chúa đã biểu lộ Lòng Xót Thương cho nhân loại tội lỗi qua Dấu Chứng Tử Nạn của Người. Người là Thiên Chúa Hằng Sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời ./. Amen
Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.
ĐẤNG PHỤC SINH ĐANG Ở GIỮA CHÚNG TA
Gm Giuse Vũ Văn Thiên
Chúng ta vừa long trọng mừng lễ Phục Sinh. Mọi ồn ào của những cuộc kiệu rước đã lắng xuống. Những bận rộn của Tuần Thánh cũng đã đi qua. Đối với nhiều người, Tuần Thánh và lễ Phục Sinh giống như những ngày lễ hội mỗi năm tổ chức một lần, lễ xong là hết. Điều còn lại có thể chỉ là những lời bình phẩm về cách tổ chức lễ năm nay có gì hơn hay kém năm ngoái. Để tránh lối suy nghĩ lệch lạc đó nơi các tín hữu, Phụng vụ hôm nay khẳng định với chúng ta rằng Chúa phục sinh đang hiện diện trong cộng đoàn các tín hữu. Người hiện diện như mối dây liên kết chúng ta nên một trong tình bác ái và sự chia sẻ nâng đỡ lẫn nhau. Hình ảnh cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem là lời mời gọi chúng ta hãy noi gương mà sống xứng đáng với danh nghĩa những môn đệ Chúa Kitô (Bài đọc I). Nếu các tín hữu có thể coi mọi sự là của chung và chuyên cần tham dự bẻ bánh, siêng năng cầu nguyện và nhiệt thành thực thi bác ái là vì họ tin Chúa Giêsu phục sinh đang ở giữa họ và chứng kiến những điều tốt lành họ đang làm.
Tuy vậy, vấn đề người chết sống lại, xưa cũng như nay, được coi là một câu chuyện hoang đường, không thể chấp nhận. Ngay như các môn đệ là những người đã cùng sống với Chúa và đã được nghe Người tiên báo về sự phục sinh, mà các ông còn chưa dễ dàng tin vào sự kiện này. Thánh Máccô ghi lại sự nghi ngờ đến mức cứng lòng của các ông: khi bà Maria Mácđala kể với các ông là bà đã gặp Chúa phục sinh, các ông cũng không tin. Các ông cũng không tin khi hai môn đệ từ Emmau trở về quả quyết đã gặp Chúa (x. Mc 16, 9-13).
Lời Chúa hôm nay dẫn chứng một nhân vật cụ thể nữa, đó là Tôma. Ông không có mặt khi Chúa hiện ra với các môn đệ. Điều các bạn kể lại không thể thuyết phục ông chấp nhận một điều “ngược đời”. Dấu đinh ở tay, vết thương ở cạnh sườn Chúa… là những điều ông đã chứng kiến như bằng cớ của việc Chúa Giêsu đã chết. Đối với ông, việc được xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn bị đâm thủng là bằng chúng xác thực về việc Chúa sống lại. Thực ra, Tôma không thách thức Chúa, ông chỉ cần bằng chứng thiết thực để ông tin.
Chúa Giêsu đã đáp trả những điều kiện Tôma đã đưa ra. Tám ngày sau, cũng vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đã hiện đến với các ông với những thương tích trên thân thể Người. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa mời ông thực hiện những điều ấy. Ông chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình.
Trong trình thuật của mình, thánh sử Gioan hai lần nói đến chi tiết “các cửa đều đóng kín”, để diễn tả Đức Giêsu phục sinh không còn bị giới hạn bởi không gian, nghĩa là Người trở nên thiêng liêng giữa thế giới của chúng ta. Cũng như Người có thể vào trong phòng khi các cửa đều đóng kín, hôm nay Người đang hiện diện nơi dung mạo và cuộc đời của những ai mang tên Người, tức là các Kitô hữu. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II)
Chúa Giêsu phục sinh hôm nay đang hiện diện cách huyền nhiệm nơi cuộc đời này. Sự hiện diện của Chúa có thể được chứng tỏ qua đời sống đạo đức yêu thương của các tín hữu. Xin cho mỗi chúng ta biết nhận ra Người đang sống giữa chúng ta để hăng hái nhiệt thành làm chứng cho Người.
“Đức tin là sự tin tưởng sống động và táo bạo vào ơn Chúa, chắc chắn và vững bền tới mức một người có thể cược cả đời mình cho nó hàng nghìn lần” (Sưu tầm).
.
Tgm. Giuse Ngô Quang Kiệt
Trong suốt tuần Bát Nhật, từ đêm vọng Phục sinh tới hôm nay, Chúa nhật 2 Phục sinh, các bài đọc đã trình bày cho ta nhiều lần Đức Kitô phục sinh hiện ra. Từ những lần thấy Đức Kitô phục sinh hiện ra ấy, các môn đệ đã có những cảm nghiệm sau đây:
- Cảm nghiệm đầu tiên là, Đức Kitô đồng hành với họ trên mọi nẻo đường.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn trong không gian. Người có thể cùng lúc xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Người xuất hiện trong vườn, gần mồ chôn Người. Người xuất hiện bên bờ hồ, nơi các môn đệ đang chài lưới. Người xuất hiện ở làng Emmau, cách Giêrusalem một quãng đường dài. Người xuất hiện trong phòng đóng kín cửa, nơi các môn đệ tụ họp. Sau này, Người còn xuất hiện ở mãi tận Damas, bên nước Syrira, nơi Phaolô lùng bắt người theo đạo. Không gian xa xôi không làm chậm bước Ngài. Không gian khép kín không ngăn được bước Ngài. Đức Kitô phục sinh ra khỏi mồ có mặt trên mọi nẻo đường của cuộc sống.
Đức Kitô phục sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian. Người xuất hiện với Maria khi trời còn đẫm sương khuya. Người xuất hiện bên bờ hồ với các môn đệ khi bình minh vừa ló rạng. Người xuất hiện trong phòng tiệc ly ngay giữa ban ngày. Người xuất hiện ở Emmau khi trời sụp tối. Trong mọi lúc của cuộc đời, Đức Kitô luôn có mặt. Không có thời gian nào Người không ở bên ta.
Đức Kitô phục sinh không còn bị giới hạn, trong một cảnh ngộ cuộc sống nhất định. Trong vườn, Người xuất hiện như người làm vườn.. Bên những người chài lưới, Người xuất hiện như một bạn chài chuyên nghiệp, rành rẽ đường đi của đàn cá. Trên đường Emmau, Người xuất hiện như một khách hành hương, đồng hành với hai linh hồn buồn bã, e ngại đường xa. Người xuất hiện để khích lệ các môn đệ đang lo buồn sợ hãi. Người xuất hiện để soi chiếu niềm nghi ngờ tăm tối của Tôma.
- Cảm nghiệm thứ hai là, Đức Kitô phục sinh khơi dây niềm bình an, tin tưởng.
Biết các môn đệ đang buồn sầu, bối rối, bấn loạn sau cái chết của Thầy, Đức Kitô phục sinh mỗi lần hiện ra, đều chúc các ông: “Bình an cho các con”. Người còn thổi hơi vào các ông và nói: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần”.
Cử chỉ thổi hơi nhắc cho ta nhớ lại việc sáng tạo. Khi ấy vũ trụ còn là một khối hỗn mang, vô định hình. Rồi Thần LinhChúa bay là là trên mặt nước. Nhờ đó mọi vật dần dần có hình hài vóc dáng, đi vào trật tự, ổn định.
Sau cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tâm hồn các môn đệ cũng tan nát như một khối hỗn mang, vô định hình. Đức Kitô thổi hơi ban Thánh Thần trong một tạo dựng mới, đem lại trật tự ổn định, uốn nắn các môn đệ thành những con người mới, tràn đầy bình an của Chúa Thánh Thần. Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Maria buồn bã trở nên vui tươi, hai môn đệ Emmau u sầu tuyệt vọng trở nên phấn khởi, các môn đệ chài lưới mệt mỏi rã rời được hồi phục sức lực, các môn đệ sợ sệt bối rối ẩn núp trong phòng được bình an, Tôma nghi nan bối rối được vững niềm tin mến. Đức Kitô phục sinh chính là niềm bình an cho các ông.
- Cảm nghiệm thứ ba, cũng là cảm nghiệm quan trọng nhất, Đức Giêsu phục sinh làm cho cuộc đời có ý nghĩa.
Sau khi Đức Kitô bị hành hình, cả một bầu trời sụp đổ. Các môn đệ tuyệt vọng. Họ sống trong lo sợ, buồn bã, chán chường. Không, họ không còn sống nữa vì cuộc đời đối với họ chẳng còn ý nghĩa gì. Họ như đã chết với Thầy. Chỉ còn nỗi lo sợ, nỗi buồn, niềm tuyệt vọng sống trong họ thôi. Đức Kitô là linh hồn của họ. Linh hồn đã ra đi. Xác sống sao được.
Khi Đức Kitô phục sinh trở lại, những xác chết bỗng hồi sinh, những bộ xương khô bỗng chỗi dậy, mặc lấy da thịt, trở lại kiếp người, những trái tim nguội lạnh trở lại nhịp đập, ánh mắt nụ cười lại rạng rỡ tươi vui, vì cuộc sống từ nay có một linh hồn, cuộc sống từ nay có một ý nghĩa.
- Cảm nghiệm cuối cùng là, Đức Kitô phục sinh sai họ đi loan báo Tin Mừng Phục sinh.
Đức Giêsu Phục sinh đã biến đổi toàn bộ cuộc đời các môn đệ. Đức Kitô phục sinh là Tin Mừng lớn lao trọng đại đem lại ý nghĩa cho cuộc đời. Nên các môn đệ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó. Maria lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, mời Phêrô và Gioan đến xem ngôi mộ trống. Hai môn đệ Emmau lập tức trở về Giêrusalem bât chấp trời đã tối đen. Phêrô chạy bay ra mồ dù còn sáng sớm và còn bị nỗi sợ người Do Thái ám ảnh. Và sau này, Phaolô, sau khi ngã ngựa, đã trở thành một người loan báo Tin Mừng không biết mệt mỏi.
Hôm nay chính Đức Kitô Phục Sinh nói với các ông: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con”.
Tất cả những người đã thấy Đức Giêsu Phục Sinh đều trở thành những sứ giả loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Tất cả các môn đệ đều đã lấy máu mình mà làm chứng cho lời rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh là một Tin Mừng không thể không chia sẻ. Vì lệnh sai đi của Đức Kitô là một lệnh truyền không thể chống cưỡng. Như Thánh Phaolô sau này đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”.
Hôm nay Đức Giêsu Phục Sinh cũng đang hiện diện bên ta. Người luôn ở bên ta trong mọi thời gian. Từ buổi bình minh khi ta mới chào đời cho đến lúc mặt trời chói lọi của tuổi thanh niên. Từ lúc xế chiều của đời xế bóng cho đến lúc bóng đêm tuổi già phủ xuống đời ta.
Người vẫn ở bên ta trong mọi không gian: trong nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, trong chòm xóm.
Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời. Người ở bên em bé mồ côi đang khóc đòi vú me. Người ở bên em học sinh đang miệt mài đèn sách. Người ở bên cô thiếu nữ đau buồn vì bị tình phụ. Người ở bên chàng thanh niên lạc hướng giữa ngã ba đường. Người ở bên ngững cuộc đời bế tắc không lối thoát.
Chỉ cần quay đầu, dừng bước là gặp được Người. Hãy khao khát đón chờ Người. Hãy tỉnh thức lắng nghe tiếng bước chân Người. Bước chân Người rất nhẹ nhàng, không ồn ào. Đừng bỏ lỡ cơ hội gặp Người.
Gặp được Người, lòng ta sẽ bình an, linh hồn ta sẽ hồi sinh, cuộc đời ta sẽ sống, sống mãnh liệt, sống phong phú, sống dồi dào.
Lạy Đức Kitô Phục Sinh, con đang chìm trong cái chết dần mòn. Xin hãy đến và cho con được Phục Sinh với Người.
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Con người thường chẳng ai hoàn hảo. Ai cũng có những khuyết tật. Ai cũng có yếu đuối. Đó là lý do cuộc sống chung sẽ dễ khiến chúng ta làm tổn thương nhau. Không cần biết chúng ta đã yêu nhau nhiều như thế nào, cẩn thận và tử tế như thế nào, vẫn có lúc chúng ta sẽ làm tổn thương nhau. Dù vô ý nhưng cũng để lại những đau lòng cho tha nhân.
Vậy làm sao chữa lành vết thương mà ta đã gây nên cho nhau? Làm sao hàn gắn những đổ vỡ do yếu đuối chúng ta đã làm tổn thương nhau?
Có một chuyện xưa kể rằng: Một vì vua kia thích sưu tầm ngọc quí đủ màu sắc, đủ kích cỡ, đến từ khắp nơi trên thế giới. Trong số đó, có một viên ngọc to như quả trứng. Mỗi khi đưa ra ánh sáng, nó phản chiếu đủ màu sắc sặc sỡ làm nhà vua rất say mê.
Nhưng một hôm, trong lúc hãnh diện khoe cùng các vị khách quí, nhà vua đã nhận ra viên ngọc có một kẽ nứt. Ông vô cùng tiếc xót, buồn bã. Từ hôm ấy, Ngài truyền cho khắp nhân gian ai sửa được viên ngọc đó y như trước sẽ được trọng thưởng. Các thợ đá quí lành nghề ra vào hoàng cung tấp nập nhưng đều lắc đầu chịu thua.
Ngày kia, có người vào yết kiến và xin vua cứ để cho mình sửa chữa tùy ý. Đang lúc tuyệt vọng, nhà vua đồng ý, vì đàng nào viên ngọc cũng mất giá trị rồi.
Anh thợ đá quí đem viên ngọc về, ngày đêm dùng những đồ nghề tinh xảo để sửa chữa viên ngọc. Chẳng bao lâu, anh đem viên ngọc dâng lên đức vua. Nhà vua vô cùng kinh ngạc vì trên viên ngọc điểm một bông hồng rất xinh đẹp, được trạm trổ một cách công phu, mà cánh hoa xinh tươi chính là dấu nứt của viên ngọc trước kia. Cánh hoa hồng xinh đẹp đã làm tăng giá trị của viên ngọc lên gấp bội, khiến mọi người đều trầm trồ khen ngợi.
Cuộc sống chung nhiều va đập sẽ để lại trong quan hệ giữa người với người biết bao vết thương. Vì:
+ Mỗi một tội lỗi trong đời sống chúng ta là một vết nứt xé nát linh hồn ta và gây nên đau khổ cho tha nhân.
+ Mỗi một lần thiếu chung thủy vợ chồng là một vết nứt trong tình yêu sẽ để lại nỗi đau của thiếu khoan dung với nhau.
+ Mỗi một tranh chấp, cãi cọ giữa láng giềng, bạn bè là một vết nứt trong tình bằng hữu xóm làng.
Đừng bi quan về những va đập mà hãy cùng nhau khắc phục cho tốt hơn, đẹp hơn. Chuyện đã tới có oán trách, giận dỗi nhau cũng chỉ khoét thêm nỗi đau cho nhau. Nhưng nếu chúng ta biết lợi dụng nó thì những vết nứt kia sẽ là khởi điểm cho một cuộc sống mới tươi đẹp hơn, khi mình biết khéo léo và kiên nhẫn sửa chữa nhau.
Lời Chúa tuần thứ hai Phục Sinh cũng cho chúng ta thấy khi hiện ra với các tông đồ, Chúa Giêsu không hề nhắc tới những chuyện đáng tiếc đã xảy ra: nơi Phêrô kẻ chối Chúa ba lần; nơi các tông đồ hèn nhát bỏ chạy nơi vườn Giệtsêmani; nơi Tôma kẻ bi quan, cố chấp luôn đòi sự kiểm chứng minh nhiên và cụ thể. Dường như Chúa đã quên hết và còn ban ân sủng của lòng thương xót để các ông được bình an. Chính Lòng thương xót Chúa đã chữa lành vết thương nơi tâm hồn yếu đuối của các môn đệ. Nhờ đó mà lòng các tông đồ tràn đầy hân hoan để chuộc lại lỗi lầm bằng việc loan báo tình thương của Chúa đến tận cùng trái đất.
Hôm nay lễ kính Lòng Thương Xót Chúa là dịp để chúng ta nhìn vào tình thương Chúa có thể chữa lành mọi sự. Dù linh hồn ta có tội lỗi, Chúa vẫn bao dung vì “tình thương Chúa phủ lấp muôn vàn tội lỗi”, và vì “Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc 19,10).
Ước gì chúng ta luôn đủ tin tưởng vào Lòng Thương Xót của Chúa để khiêm tốn chạy đến đón nhận ân sủng đầy tình thương của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta cũng trở nên tông đồ của lòng thương xót khi biết dùng tình thương để xóa bỏ hận thù, dùng lòng khoan dung để nối lại tình người và cùng xây dựng một thế giới tràn đầy tình thương hiệp nhất và bình an. Amen.
.
Lm Tôma Nguyễn Hoàng Phượng
Nói về tình yêu, yếu tố tâm lý luôn luôn đúng, đó là: Yeu nhau người ta muốn được gặp gỡ nhau, và yêu nhau người ta muốn được ở gần nhau.
Yếu tố tâm lý ấy đúng với Maria Mađalêna: Mến Chúa. Cô muôn được gặp Chúa, Chúa chết được chôn trong mồ rồi còn gặp Chúa làm chi? Bất kể, ngay từ tảng sáng, cô đã ra mộ viếng xác Chúa, rồi khi thấy Chúa sống lại hiện ra với cô, cô vui mừng hớn hở chạy lại ôm Chúa,…
– Yếu tố tâm lý ấy cũng đúng với các môn đệ: Yêu Chúa, xa Chúa, các ông mong gặp lại Chúa. Chúa sống lại hiện ra cho các ông thấy rồi, các ông chưa cho là đủ, còn muốn được thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa như Tôma.
– Ngày nay, Chúa cũng đến với chúng ta, để chúng ta được gặp gỡ Người. Nhưng phải gặp gỡ thế nào để đẹp lòng Chúa? Các bài đọc trong sách thánh hôm nay dạy ta biết cách gặp gỡ Chúa:
- Ta không quên nên gặp gỡ Chúa trong thân xác của Chúa: Nhiều người mến Chúa nên ao ước:
∙ Được ẵm bế Chúa như Đức Mẹ và thánh Giuse.
∙ Được dựa vào ngực Chúa như thánh Gioan.
∙ Được rờ vào bàn chân Chúa như Maria Mađalêna.
∙ Được thọc bàn tay vào cạnh sườn Chúa như Tôma.
Họ nghĩ họ làm được như vậy mới thực hãnh diện và hạnh phúc. Nhưng Chúa Giêsu lại không khen và không đồng ý với việc làm ấy. Ngài nói ngay với Mađalêna: “Con đừng chạm tới Thầy vì Thầy chưa về cùng Cha” Chúa cũng nói với Tôma: “Vì con đã xem thấy nên con tin. Phúc cho những ai không xem thấy mà tin”. Tình yêu chỉ dâng cao khi biến thành niềm tin. Vậy, được gần gũi Chúa, được dựa vào ngực Chúa, được ôm chân Chúa, được sờ bàn tay vào cạnh sườn Chúa….chưa phải là hạnh phúc thật.
– Giuđa sống gần gũi thân mật với Chúa trong 3 năm, thấ mà có ơn ích gì? Sỡ dĩ không ích gì cho ông vì ông gian dối, ông “gần mặt mà xa lòng”.
– Tên trộm dữ chết bên Chúa mà có ăn thua gì? Vì anh không biết xám hối tội lỗi, và nhất là không nhận ra Chúa Kitô là ai.
– Lính canh mộ thấy Chúa sống lại, nhưng có được ơn ích gì? Vì họ không tin vào Chúa Kitô có khả năng phục sinh.
Vậy, chưa hẳn gần Chúa, nhìn thấy Chúa mà được hạnh phúc. Hạnh phúc ở tại lời Chúa dạy:
- “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
– Ngày nay, chúng ta thật hạnh phúc hơn các tông đồ xưa kia. Vì không ở gần Chúa, không nhìn thấy Chúa, không chứng kiến các phép lạ Ngài làm, nhưng đã tin Chúa.
– Chúng ta tin Chúa Giêsu đã sinh ra và sống giữa thế gian, đã chết và đã sống lại như lời Ngài phán hứa, và hiện giờ đang ngự bên hữu Đức Chúa Cha, và cũng đang ngự thật trên bàn thờ này qua hình bánh, hình rượu. Người thật là người cha đầy tình thương.
– Các tín hữu sơ khai biểu lộ niềm tin bằng việc làm như: Họp nhau cầu nguyện, chia sẻ cơm áo cho nhau, đoàn kết yêu thương nhau,…Chúa cũng muốn chúng ta hôm nay sống trong tin yêu Cúa, và biết đoàn kết yêu thương nhau.
– Đời là một cuộc đi tìm hạnh phúc. Và người ta chỉ tìm được hạnh phúc khi tin yêu Chúa và yêu mến tha nhân. “Phúc cho ai không thấy mà tin”. Chúng con không thấy Chúa, nhưng chúng con tin có Chúa. Tuy thế, đức tin của chúng con còn yếu kém, xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con.
.
Lm Văn Hào
Trong suốt tuần bát nhật, Giáo hội chọn những bài đọc trong sách Tông đồ Công vụ, để thuật lại những bài giảng của thánh Phêrô nói về sự kiện Đức Giêsu đã sống lại. Vị Tông đồ đã nhiều lần khẳng quyết sự xác tín này trước nhà cầm nguyền Rôma, trước những kỳ mục và biệt phái người Do thái, cũng như trước đông đảo quần chúng. Trong Chúa nhật tuần này, chúng ta được mời gọi nhìn vào chứng tá của cộng đòan Giêrusalem tiên khởi (bài đọc 1), cũng như học hỏi niềm tin nơi các Tông đồ, đặc biệt nơi Tôma Đydimô. Niềm tin đó là nền tảng xây dựng Hội thánh và cũng được truyền thụ lại cho chúng ta ngày hôm nay.
Ngài thổi hơi vào các ông và ban Thánh Thần (Ga 20,22)
Trong nhãn quan thần học của Thánh Gioan, các sự kiện liên hoàn được trình thuật lại, gồm việc Chúa sống lại, đi vào trong vinh quang với Chúa Cha và trao ban Thần khí để xây dựng Hội thánh, chỉ là một mầu nhiệm duy nhất không tách rời. Vì vậy Chúa Phục sinh hiện đến giữa các Tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, thổi hơi trên các ông và trao ban năng quyền tha tội chính là động thái thiết lập Giáo hội, nhiệm thể của Đức Kitô Phục sinh. Sự sống của Đấng Phục sinh được thông truyền cho Giáo hội, vì thế ngoài Giáo hội, tức ngoài nhiệm thể của Đấng Phục sinh sẽ không có ơn cứu độ. Chúng ta nhớ lại, trong trình thuật tạo dựng, tác giả sách Sáng thế thuật lại việc Thiên Chúa lấy bùn đất tạo nên hình người. Sau đó, Ngài thổi hơi ban sinh khí và con người trở nên sinh vật, tức là một vật thể có sự sống (St 2,7). Đây là những hình ảnh biểu trưng, khải thị cho ta biết rằng sự sống phát nguyền từ nơi Thiên Chúa. Song, tội lỗi đã nhập vào trần gian và con người đánh mất sự sống ban đầu. Vì thế, trong chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa, Đức Giêsu đến trần gian và dùng chính máu của Ngài để ‘giải án tuyên công’ (hạn từ của dịch giả Nguyễn Thế Thuấn), cho chúng ta được ‘công chính hóa’, và phục hồi nơi chúng ta sự sống làm con cái Chúa. Trong cái nhìn thần học ấy, thánh Gioan đã miêu tả việc Chúa hiện đến, và thổi hơi ban Thần khí để tái sinh Hội thánh chỉ là một sự kiện duy nhất. Chúa đã sống lại khai sinh một dân mới, dân tư tế, dân tộc thánh thiện gồm đoàn người đông đảo mặc áo trắng tinh, áo đã được giặt trong máu Chiên Con (Kh 8,14). Trình thuật hôm nay cần được đọc lại, liên thông với sách Khải huyền để chúng ta có thể nắm bắt những tư tưởng thần học mà thánh Gioan muốn trình bày.
Chứng tá của cộng đoàn Giêrusalem tiên khởi
Trong bài đọc 1, Thánh Luca, tác giả sách Tông đồ Công vụ nêu bật chứng tá của cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên. Đây là cộng đoàn do chính Chúa Giêsu thiết lập bằng cách thông ban sự sống mới cho họ. Cộng đòan này đã được hồi sinh, và đời sống của họ trở nên chứng tá cụ thể cho Đấng Sống lại. Tác giả đã nêu ra 4 đặc nét của cộng đoàn này :
1/ Sống một lòng một ý, tức hiệp nhất trong tình yêu.
2/ Sống theo chế độ cộng sản đúng nghĩa nhất bằng việc đặt mọi sự làm của chung.
3/ Chuyên cần trong việc bẻ bánh, tức là cử hành các Bí Tích.
4/ Tuân theo lời chỉ dạy của các Tông đồ.
Sự sống mới mà Đấng Sống lại ban tặng, giúp hồi sinh cộng đoàn và các vị đã trở nên những chứng nhân đầu tiên, thể hiện rõ nét qua cách sống mới. Đây là mô thức cho tất cả các cộng đoàn Kitô hữu chúng ta.
Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã nói : “Thế giới ngày nay cần những chứng nhân hơn là thầy dạy”. Rao giảng bằng lời nói phải đi đôi với hành động. Phêrô thì rao giảng cách mạnh mẽ và can trường, và cuối cùng Ngài đã chấp nhận cái chết tử đạo để trở thành chứng nhân. Các Kitô hữu tại Giêrusalem thì rao giảng qua đời sống huynh đệ, gắn kết với nhau trong tình yêu, và biết chia sẻ với nhau của cải vật chất cũng như của ăn tinh thần. Họ vâng phục các tông đồ là những người thừa ủy năng quyền của Đấng Phục sinh, và nhờ đó họ trở nên một nhiệm thể duy nhất. Các cộng đoàn Kitô của chúng ta hôm nay cần nhìn vào mẫu gương đó để học hỏi và sao chép.
Niềm tin kiên định nơi Tôma và các tông đồ
Tôma không phải là con người cứng tin như nhiều người lầm tưởng. Ngài cũng không phải là con người thuộc trường phái duy nghiệm, tức là chỉ thấy mới tin. Trái lại, Tôma là một tông đồ có niềm tin rất sâu xa và kiên vững. Ngài khao khát muốn được tiếp cận trực tiếp với Đấng Phục sinh để được Đức Giêsu thổi hơi ban Thánh thần, chuyền tải cho mình sự sống mới. Tôma và các tông đồ đã được Chúa Giêsu cho thỏa mãn ước mơ ấy. Tâm hồn của các Ngài đã lấp đầy bằng sự sống và ân sủng. Chúa trưng ra các vết tích cuộc tử nạn nơi thân thể Ngài để mời gọi Tôma một lần nữa nhìn lại hình bóng Thập giá và nhắc nhở các học trò đi sâu vào mầu nhiệm tự hủy để được sống với Ngài trong sự sống mới. Lời tuyên tín của thánh Tôma là lời tuyên bố bắt đầu khai mở cuộc hành trình mới trong đức tin để cùng chết với Thầy của mình trong mầu nhiệm tự hủy mỗi ngày. Sử sách ghi lại rằng, Thánh Tôma sau này đi truyền giáo ở Parthia và đã lãnh triều thiên tử đạo tại đó.
Tôma không phải là một tông đồ cứng tin hay cố chấp. Trái lại, đức tin kiên vững nơi Ngài là mô hình để chúng ta cùng học hỏi và noi theo.
Kết luận
Giáo hội đã mừng lễ Chúa Phục sinh và kéo dài suốt cả tuần bát nhật. Các ngày Chúa nhật cũng là ngày mừng Chúa sống lại, và mầu nhiệm căn bản này phủ bọc trọn vẹn đời sống đức tin của chúng ta. Nhưng điều quan trọng là chúng ta đã hiển thị niềm tin ấy cách cụ thể như thế nào. Chúng ta hãy bắt chước cộng đoàn Giêrusalem năm xưa để rao giảng không phải chỉ bằng lời nói, nhưng còn bằng chính cuộc sống của chúng ta mỗi ngày.
.
Anna Cỏ May
Chúa đã sống lại rồi. Thế là ứng nghiệm Lời Chúa đã nói: “Ngày thứ ba Người sẽ sống lại.”. Ngài đã hiện ra với các bà, cùng với hai môn đệ trên đường Emmau. Các môn đệ khác đã được nghe các bà kể lại, nhưng sao các ông vẫn còn sợ ?!
Tin Mừng đã viết: “Vào chiều thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa phòng điều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái” (Ga 20,19). Phải chăng các ông sợ vì các ông đã được Thầy yêu thương, bao bọc, bảo vệ, nuôi dưỡng và dạy dỗ như “gà mẹ ấp ủ gà con.” Khi gà mẹ không còn, đàn gà con tan tác, sợ hãi. Bây giờ các môn đệ cũng vậy. Nơi các ông chỉ còn sự sợ hãi và bóng tối bao trùm mà thôi.
Còn Chúa Giêsu, khi thấy các môn đệ của mình nghi ngờ, sợ hãi, Ngài đã đến với họ. Ngài đến trong sự nhẹ nhàng, không tiếng động. Ngài đem ánh sáng bình an phá tan căn phòng tối khi Ngài nói: “Bình an cho anh em.” (x. Ga 20,19). Có lẽ, các môn đệ không thoát khỏi sự sợ hãi kinh hoàng trước bất ngờ ấy. Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Lúc này các ông mới vui mừng. Nhưng để niềm vui các ông trọn vẹn và hoàn toàn thoát khỏi sự ngờ vực, Ngài tiếp tục thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20, 22-33). Các ông không chỉ được cứu thoát khỏi sự ngờ vực mà còn được thức tỉnh và được lãnh nhận ơn quyền năng Thánh Thần như Ngài đã hứa ban.
Trong nhóm môn đệ được Chúa tỏ lộ, có một người tên là Tôma, ông còn được gọi là Điđimô lại không có mặt ở đó. Tin Mừng cũng không viết rõ lý do ông vắng mặt. Vì thế khi nghe các anh em mình nói rằng họ đã được thấy Chúa, ông đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng tin.” (x. Ga 20,25). Những lời nói của Tôma cho chúng ta thấy rằng ông có thể là một người đa nghi. Đối với ông không có gì lay chuyển được nếu không được giác quan kiểm chứng, mắt thấy tai nghe, tay phải sờ phải đụng. Ông cũng vì quá thất vọng khi thấy Thầy chết tức tưởi trên cây thánh giá, bị kẻ qua người lại bĩu môi cười nhạo, nên ông nói những lời thách đố như vậy.
Tám ngày sau, các môn đệ họp mặt, có cả ông Tôma hiện diện. Bây giờ, Chúa Giêsu hiện ra – vì một con chiên còn cứng lòng (!?) – Ngài đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.”. Đoạn Ngài hướng về ông Tôma và nói: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy xem tay Thầy. Đưa tay ra đây mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” (Ga 20, 26 -27). Ngài đã dùng chính những danh từ mà ông Tôma đã nói về Ngài. Lúc này ông Tôma không biết làm gì hơn là quỳ phục xuống mà thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con.”(x Ga 20, 28) Ông đã tin và tuyên xưng đức tin, lòng mến, cậy trông, phó thác vào Chúa. Điều Ngài hằng mong mỏi là những tâm hồn bé mọn dựa vào đức tin hơn là dựa vào giác quan: “Phúc thay những người không thấy mà tin.”(Ga 20, 29).
Chúng ta hãy cám ơn ông Tôma. Vì qua ông, sự thật Chúa sống lại được rõ ràng xác thực hơn, giúp mọi người càng vững tin mạnh. Ngoài ra, chúng ta càng thấy rõ tình yêu và lòng thương xót của Chúa rộng lớn bao la. Mọi kẻ cứng lòng và tội lỗi, Ngài điều làm cho họ thấy và tin. Mọi bóng tối uẩn khuất, Ngài đến chiếu sáng. Như vậy, sự sống vĩnh cửu và ánh sáng Phục Sinh luôn mãi tỏa sáng.
Lạy Chúa Giêsu, con cảm ơn Chúa đã sống lại để niềm tin của chúng con được vững mạnh. Chúng con xin Chúa hãy tiếp tục phá tan màn đêm cùng sự cứng lòng của chúng con. Nhờ đó chúng con được cảm mến và hưởng vinh quang của Chúa trong những ngày hạnh phúc Phục Sinh. Amen.
.
CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG TIN LÀ CON ĐƯỜNG CỦA LÒNG MẾN
Lm Giuse Nguyễn Hữu An
Chúa nhật II phục sinh, Giáo hội tuyên dương lòng thương xót Chúa. Thánh Gioan Phaolô II đã thiết lập lễ này đáp lại ý Chúa muốn qua thánh nữ Maria Faustina: “Ta muốn ngày lễ kính lòng thương xót là một trợ giúp và là nơi trú ẩn cho mọi linh hồn và nhất là cho những người tội lỗi đáng thương. Trong ngày ấy, lòng thương xót của Ta sẽ rộng mở, Ta sẽ tuôn đổ một đại duơng hồng ân xuống các linh hồn đến gần nguồn mạch lòng thương xót của Ta” (Tiểu nhật ký, số 699). Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II qua đời vào đêm cuối tuần Phục Sinh đầu tiên (ngày 2 tháng 4 năm 2005). Lòng thương xót Chúa đã chiếu một luồng ánh sáng vào cái chết của một vị thánh thời đại.
Lòng thương xót của Chúa được biểu lộ qua cuộc thương khó và cái chết của Ngài trên thập giá. Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo. Lòng thương xót ghi đậm nét nơi các vết thương trên thân thể Chúa. Vì thế, việc đầu tiên khi hiện ra với các môn đệ, sau khi trao ban bình an, là Chúa cho các ông xem các vết thương ở tay và cạnh sườn, các môn đệ vui mừng và bình an.
Lòng thương xót Chúa đối với con người trước và sau phục sinh không thay đổi, vì Chúa Giêsu vẫn là một để cho người ta nhận ra Ngài. Vết thương diễn tả lòng thương yêu của Chúa với con người không thay đổi. Ngài còn khoe và cho phép Tôma lấy tay kiểm tra vết thương.Chúa không che dấu, không tiếc xót dù Tôma có cứng lòng, đòi thực tế phải thấy mới tin.
- Đức tin của Tôma
Chúa sống lại, các môn đệ không dễ dàng tin, thánh sử Luca kể: “Khi từ mộ trở về, các bà Maria Macđala, bà Gioanna và bà Maria, mẹ ông Giacôbê và các bà khác cùng đi với mấy bà này. Các bà kể cho Nhóm Mười Một và mọi người khác biết tất cả những sự việc ấy. Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẫn, nên chẳng tin” (Lc 24,11). Thánh Matthêu thuật lại : khi mấy người phụ nữ báo tin cho các môn đệ : Chúa đã sống lại rồi, các ông cũng hoài nghi. Rồi, “khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi” (Mt 28,17). Riêng Tôma đã nói một câu quyết liệt: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Đây là kiểu tin bằng lý luận kiểm chứng, chỉ tin khi thấy, khi đã có đủ bằng chứng rõ ràng hiển nhiên.
Tôma đại diện cho những người lý luận, cái gì cũng muốn xem tận mắt, bắt tận tay. Chỉ tin những gì thấy được. Chỉ chấp nhận những gì sờ được. Đòi kiểm nghiệm tất cả. Đòi tự mình chứng nghiệm tất cả. Không chỉ tin vào lời nói suông. Tôma không vội tin một cách dễ dàng như bao người khác. Ông là người có tính thực tế của khoa học phải qua kiểm chứng, kiểm nghiệm bằng mắt thấy, tai nghe, tay chân sờ mó đụng chạm hẳn hoi thì mới tin. Đây phải chăng là thái độ khôn ngoan, cẩn thận trước một quyết định hết sức quan trọng của đức tin nơi Tôma? Cám ơn thánh Tôma, vì nhờ ngài mà các môn đệ khác được chứng kiến tỏ tường Chúa sống lại, được nhìn thấy những vết thương ở tay chân và cạnh sườn Người.
Trước khi tin, Tôma phải hoài nghi đã. Tôma chỉ tin những điều hợp lý, những gì ‘thấy được, sờ được’. Đây không phải là thái độ cố chấp của Tôma mà ngược lại là thái độ không nhẹ dạ, không cả tin vội vàng bằng tai nghe. Đó là lối phân tích theo nhận định tự nhiên của con người và cũng là kinh nghiệm sống đức tin của nhiều người chúng ta. Dù sao, đây cũng là một khó khăn riêng tư của Tôma trong việc tin vào Chúa sống lại. Chúa Giêsu hiểu ông, nên đã đích thân đến và giúp cho ông dễ dàng hơn để tin vào Chúa. Ngài mời gọi ông hãy tin vững vàng. Và ông đã nói lên lời tuyên xưng đức tin thật đẹp đẽ, thật trang trọng ‘lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi‘. Cuối cùng, Chúa Giêsu đã ban cho Toma sự bình an và đức tin mạnh mẽ qua sự hoài nghi, để ông tuyên xưng đức tin cá nhân của mình : “Lạy Thiên Chúa của con“. Sau khi nhận lãnh Chúa Thánh Thần, Tôma đi rao giảng Tin Mừng khắp nơi. Theo lưu truyền, ông đi rao giảng đức tin và lòng thương xót của Chúa ở Ba tư, Xyri rồi chịu tử đạo ở Ấn Độ.
Thần học gia Hans Kung nói : “người tín hữu không bao giờ nghi ngờ sẽ khó lòng hoán cải một người hoài nghi”. Nhà thần học Paul Tillich nói : “sự hoài nghi chín chắn là sự khẳng định của đức tin. Nó chứng tỏ một sự quan tâm rất nghiêm chỉnh”. Còn Thomas Merton bảo: “người có niềm tin mà chưa từng trải qua sự nghi ngờ thì không phải là người có niềm tin”. Jean Guitton, một nhà triết học người Pháp, nói: “Chính vì nghi ngờ thường trực mà tôi lại có thể tin vững”. Thực tế, trên đời có biết bao điều chúng ta không thấy mà vẫn tin, không kiểm tra được mà vẫn phải chấp nhận và sống điều ấy. Sự hoài nghi giúp chúng ta trưởng thành trong đức tin, thúc đẩy ta thắc mắc, tìm hiểu, học hỏi, cầu nguyện, nghiên cứu sách vở (Lm. Pet. Bi Trọng Khẩn).
- Lòng mến của Gioan
Có hai mức độ tin: mức độ thấp là tin vì thấy,tin dựa vào bằng chứng; mức độ cao là tin mà không cần thấy, tin không dựa trên bằng chứng mà dựa trên tình yêu.Đây là mối phúc thứ 9 như lời Chúa Giêsu nói với tông đồ Tôma : “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20,28). Không thấy mà tin không có nghĩa là tin một cách mù quáng, vu vơ, không có cơ sở, không có lập trường mà là bằng tình yêu nên đức tin vững mạnh hơn, truởng thành hơn.Thánh Gioan, “người môn đệ Chúa yêu”, bằng tình yêu, Gioan “đã thấy và đã tin” và nhận ra điều mà mọi người khác không nhận ra. Phúc âm kể: khi thấy một bóng người mờ mờ đi trên mặt biển, mọi người khác đều tưởng là ma, chỉ có Gioan là tức khắc nhận ra đó là Thầy mình. Khi Chúa Phục Sinh hiện ra bên bờ biển hồ Tibêria, “các môn đệ không nhận ra” nhưng “ môn đệ được Chúa Giêsu thương mến” đã nhận ra và nói với Phêrô “Chúa đó” (Ga 21, 4-7)…Rõ ràng, con đường tình yêu đi đến niềm tin nhanh chóng hơn, nhẹ nhàng hơn, thoải mái hơn.
Tin mừng Phục Sinh cho thấy: có hai con đường dẫn tới đức tin, một con đường bằng lý luận với những bằng chứng rõ ràng, và con đường thứ hai là dựa vào tình yêu thoạt xem có vẻ tầm thường nhưng thực ra lại nhanh chóng, nhẹ nhàng và cũng không kém phần vững chắc. Chúng ta hãy củng cố đức tin của mình bằng cả hai con đường đó. Phải có những suy nghĩ lý luận thật vững chắc về Chúa, mặt khác chúng ta cũng hãy cố gắng yêu mến Chúa ngày càng nhiều hơn, bởi vì cũng như thánh Gioan, nếu có thêm sức mạnh của tình yêu, chúng ta sẽ được mở mắt để nhận biết những gì mà người không yêu Chúa không nhận biết.
- Lòng Chúa Xót Thương
Nhân loại thời nay khát khao một “Thiên Chúa tình yêu giàu lòng thương xót” (1Ga 4,8; Ep 2.4) để họ tôn thờ, tựa nương và tìm được ý nghĩa cuộc đời. Năm Thánh Lòng Thương Xót là cơ hội để đào sâu đức tin và canh tân chứng tá Kitô giáo. Lòng thương xót là tình yêu thương, là lòng trắc ẩn với người đau khổ, với người nghèo đói, với người bệnh tật, với người tội lỗi. Nhân loại thời nay cần tình yêu, đây là một dấu chỉ của thời đại.Vì thế, mỗi người tùy vào khả năng của mình hãy đặc biệt quan tâm đến việc thực thi lòng thương xót. Mỗi tín hữu được mời gọi trở thành nhân tố tích cực để sống và làm chứng cho lòng thương xót.
Điều làm nên nét độc đáo của người tín hữu là nhân đức thương xót, thể hiện bằng đạo yêu thương, được bộc lộ nơi bản thân và cuộc đời mỗi cá nhân. Mỗi người, bằng cách thực thi bác ái, lòng thương xót và tha thứ, có thể trở nên dấu chỉ quyền năng tình yêu của Thiên Chúa có sức biến đổi tâm hồn, đem lại hòa giải và bình an.Trong Tông sắc Misericordiae Vultus (Dung mạo Lòng Thương Xót), ĐTC Phanxicô nói: “Thời đại ngày nay, khi Hội Thánh đang thực thi công cuộc Tân Phúc Âm hóa, lòng thương xót quả là cần thiết để một lần nữa tạo nên nhiệt tình mới và đổi mới các hoạt động mục vụ. Điều tối quan trọng đối với Hội Thánh, cũng như để làm cho lời rao giảng của Hội Thánh đáng tin, chính là sống và làm chứng cho lòng thương xót. Ngôn ngữ và hành động của Hội Thánh cần phải thông truyền lòng thương xót, để đến với trái tim con người và giúp họ gặp thấy lối đường dẫn về Chúa Cha” (số 12). Đáp lại lời kêu gọi của ĐTC Phanxicô, trong Thư gởi cộng đoàn Dân Chúa (17.9.2015), HĐGMVN nhấn mạnh: “Mỗi người Công giáo phải trở thành nhân tố tích cực trong việc xây đắp nền văn minh tình thương và văn hóa sự sống. Không có những chứng nhân của lòng thương xót, xã hội sẽ trở thành một sa mạc hoang vu, cằn cỗi, không sức sống”.
Chúa Phục Sinh cho các tông đồ xem những thương tích cuộc khổ nạn nay đã thành sẹo như mời gọi các ngài chiêm ngắm chính nguồn mạch của Lòng Thương Xót không bao giờ cạn vơi.
Thánh Tôma Aquinô đã cầu nguyện rằng: “Chúa ơi, con không xin được xem thương tích Chúa như ông Tôma tông đồ, nhưng con tuyên xưng Chúa là Chúa của con. Hãy làm cho con luôn tin vào Chúa, cậy trông vào Chúa và yêu mến Chúa nhiều hơn nữa”. Người kitô hữu đôi khi không cần trí tuệ để tin vào những thực tại thiêng liêng; không cần giác quan để kiểm soát những dấu chỉ mầu nhiệm trong đạo, mà cần sống bằng lòng mến. Càng yêu mến nhiều thì càng tin chắc. Càng tin vững thì càng bình an. Như vậy, con đường của lòng tin là con đường của lòng mến. “Ai xót thương người, sẽ được Thiên Chúa xót thương” (Mt 5,7). Những ai luôn tin vào sự hiện diện của Chúa Giêsu phục sinh đều luôn sống tích cực và khám phá ra điều kỳ diệu trong những cái tầm thường để có khả năng chứng mình về tình yêu và lòng thương xót của Chúa.
.
Trầm Thiên Thu
Mầu nhiệm là điều phàm nhân không hiểu nổi. Chữ “mầu nhiệm” của tiếng Việt được sử dụng trong các sách thần học và giáo lý để dịch chữ mysterium (tiếng La-tinh), mystery (tiếng Anh), hoặc mystère (tiếng Pháp). Chữ “mầu nhiệm” thường được dùng trong lĩnh vực đức tin, theo nghĩa là những chân lý vượt quá tầm hiểu biết của trí tuệ con người, tức là con người không thể hiểu thấu. Chúng ta nhận biết bằng đức tin dựa trên lời chân thật của Thiên Chúa, do chính Thiên Chúa mặc khải. Có nhiều mầu nhiệm, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa là một mầu nhiệm.
Thật kỳ diệu, ngay trên đỉnh Can-vê, Thập Giá đã nảy lộc, đơm hoa và kết trái. Chúa Giêsu đã chiến thắng tử thần, Ngài đã phục sinh vinh hiển, ngôi mộ trống là chứng có hùng hồn đầy tính thuyết phục, mặc dù người ta đã hèn nhát hối lộ nhau để bóp méo sự thật.
Trước đây, Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, ngày nay gọi là Đại lễ kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), được Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938), vị tông đồ tiên khởi của LCTX.
Tuy là hai cách gọi nhưng vẫn chỉ là một. Tương tự, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX tuy ba mà một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải ước muốn của Ngài cho Thánh nữ Faustina: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó” (Nhật Ký, số 341).
Chính Chúa Giêsu đã hứa: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta” (Nhật Ký, số 1109). Ơn tha thứ hoàn toàn đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, lúc 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh năm xưa trên đồi Golgotha. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX.
Đức tin vô cùng quan trọng. Thật thế, Thánh Phaolô xác định: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy” (Rm 3:28). Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, và có thể coi như “mối phúc thứ chín”, do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29). Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16).
Đề cập vấn đề đức tin trong ngày lễ kính LCTX, xin được “mở ngoặc” nhỏ: Thấy có những người hằng ngày tới nhà thờ lần Chuỗi LCTX với cộng đoàn, nhìn bề ngoài thấy là người đạo đức lắm, thế nhưng họ vẫn tin vào tử vi. Họ lý luận rằng đó là khoa học, không có tội (sic!).
Tử vi (*) cũng gọi là “tử vi đẩu số”, một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi”. Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Như vậy không phải là “tin bằng môi miệng” ư?
Ngoài ra, cũng thấy có những người vẫn còn “chạy đua” theo những “sự lạ” trong khi lại không để ý các phép lạ hằng ngày: Thánh Thể và không khí. Phải chăng như vậy cũng chỉ là “lẻo mép”, chúng ta đến với LCTX mà chưa thực sự vì yêu mến? Thiết nghĩ, cách thể hiện đức tin như vậy cũng nên “xét lại” lắm!
Người Việt có câu: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn”. Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng”. Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Thực tế minh nhiên. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi!
Thánh nữ Faustina nói về việc sống đức tin: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa” (Nhật Ký, số 1659).
Tác giả Thánh Vịnh luôn vững tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn” (Tv 73:26). Chỉ người nào có đức tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta” (Rm 8:39). Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài.
Trình thuật Cv 2:42-47 cho biết: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ”.
Một đoạn văn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,… Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.
Từ muôn thuở tới muôn đời, trước sau như một, Thiên Chúa mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương” (Tv 118:2-3). Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ. Chúng ta có nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài, và tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi” (Tv 118:14).
Chúa Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường” (Tv 118:22). Thật là kỳ công vô song của Thiên Chúa! Vì thế, chúng ta hãy nhắc nhở nhau và đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24).
Trong tâm tình hân hoan đó, Thánh Phêrô vui mừng nói: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết” (1 Pr 1:3-5). Đó là lời chứng của người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác.
Để động viên chúng ta, Thánh Phêrô nhắn nhủ thêm: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự” (1 Pr 1:6-7). Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, đúng là như vậy. Tuy nhiên, trong khi miệng nói tín thác vào LCTX mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, đọc như con vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích!
Quả đúng như vậy, bởi vì Chúa Giêsu đã nói chắc chắn và rõ ràng: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7:21). Ngôn hành phải song song, không thể nói một đàng làm một nẻo.
Về Mối Phúc “không thấy mà tin”, Thánh Phêrô cũng giải thích rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người” (1 Pr 1:8-9). Đức tin quan trọng, nhưng đức tin có những mức độ khác nhau ở mỗi người, đức tin càng sâu rộng càng có giá trị, và tất nhiên cũng cần trau giồi hằng ngày – thậm chí là từng giây phút trong cuộc sống.
Tin Mừng hôm nay là trình thuật Ga 20:19-31, một đoạn Tin Mừng rất quen thuộc nói về việc cứng lòng tin của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới đức tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh.
Rất có thể tông đồ Tôma là người thực tế nên ông cần điều cụ thể, rõ ràng. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta vẫn dễ bị “lung lay” mỗi khi gặp gian khổ, và rồi chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu” đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì?
Kinh Thánh cho biết rằng vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng lạnh xương sống lắm chứ! Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!”. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy thật rồi. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em”. Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ”.
Nhưng chiều hôm đó không có mặt tông đồ Tôma, cũng gọi là Đi-đy-mô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông Tôma nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Ái chà, coi bộ “căng” dữ nghen!
Rồi tám ngày sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có cả ông Tôma. Các cửa cũng vẫn đóng kín mít. Thế mà thật lạ, Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. Ngại hết sức! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê đi! Ngại thì ngại lắm, ông Tôma chỉ còn biết vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đó là một dạng thú tội. Ngài ôn tồn: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29).
Sau khi sống lại, hai lần đầu tiên Chúa Giêsu hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần”, khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa vào ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh.
Thánh sử Gioan cho biết: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Gia-cô-bê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân” (Gr 17:7).
Như chúng ta đã biết, Chúa Giêsu là Thiên Chúa tình yêu, là Đấng giàu lòng thương xót, và Ngài đã yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1). Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, là Nguồn Mạch Lòng Thương Xót, chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt (2), và rồi ông này đã phải thú nhận ngay tại chân Thập Giá vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa, là người công chính!” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47).
TIN để ĐƯỢC Thiên Chúa thương xót là hệ lụy liên kết chặt chẽ, không thể tách rời. Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên không ai có thể đến với Chúa Cha nếu không qua Đức Kitô: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến được với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14:6).
Trong niềm vui tưng bừng của Tin Mừng Phục Sinh, chúng ta cùng nhớ lại lời Thầy Giêsu đã nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó” (Ga 14:1-3). Lời này là lực đẩy mạnh mẽ để chúng ta tiếp tục cuộc lữ hành trần gian cho đến khi hoàn tất cuộc đời, cũng là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh mãi mãi.
Lạy Thiên Chúa hằng hữu và giàu lòng thương xót, xin giúp con luôn chân thành tín thác vào Con Chúa, Đấng đã chịu tử nạn vì thương xót nhân loại và đã phục sinh để những ai tin Ngài cũng sẽ được sống dồi dào. Xin Ngài thương xót toàn thế giới, và xin giúp con thể hiện lòng thương xót đúng với Tôn Ý Ngài. Con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng đã yêu thương nhân loại đến cùng và là Đấng cứu độ. Amen.
——-
(1) Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa Chiêm tinh Tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc.
(2) Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô (Rôma).
.
TỪ VẾT THƯƠNG LÒNG ĐẾN SUỐI NGUỒN THƯƠNG XÓT
Bs. Nguyễn Tiến Cảnh
Khi nói hắn là “Tào Tháo” có nghĩa là một tên đa nghi, chẳng tin những gì người khác nói. Tương tự như vậy khi bàn về việc Chúa Kito chết 3 ngày sau sống lại, nói đến Toma, một trong 12 môn đệ của Chúa là chúng ta nghĩ ngay đến việc ông nghi ngờ, không tin Chúa Giesu sống lại. Vào buổi chiều ngày Phục Sinh khi chúa Giesu hiện ra với các môn đệ thì Toma không có mặt. Sau này nghe mọi người kể lại việc Chúa hiện ra với họ, Toma đã không tin và nói: nếu mắt không nhìn thấy những dấu đanh Chúa, ngón tay không đặt vào các lỗ đanh ở tay chân Chúa và tay không đặt vào vết đâm cạnh sườn Chúa thì ông không tin (Ga 20:25). Tám ngày sau Toma đã qui phục và tin thì Chúa phán với ông: “Vì anh đã thấy nên anh tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin!” (c.29)
MỘT TOMA THỰC SỰ
Toma là một trong những môn đệ vĩ đại nhất, lương thiện nhất được Chúa Giesu yêu thương, không phải vì tính đa nghi cố hữu, cứng đầu nhưng can đảm mà truyền thống Kito giáo thường tô vẽ lên. Người môn đệ trẻ này đã đứng trước thánh giá, không cần biết đến những nguy hiểm đang xẩy ra. Tất cả mọi mơ ước và hy vọng của ông lúc ấy đã treo trên thánh giá. Ông đã khám phá ra niềm tin của ông giữa một cộng đồng tin của các tông đồ và môn đệ. Điểm này không được quên, vì nay là thời đại mà người ta cho là niềm tin và tu đức có thể đạt được không cần cảm nghiệm được cộng đồng giáo hội. Chúng ta không tin với tư cách cá nhân riêng lẻ nhưng là qua phép thanh tẩy, chúng ta trở nên những thành viên của một đại gia đình Giáo Hội. Nó là một niềm tin được tuyên xưng bởi cộng đồng giáo hội mà chúng ta gọi là Giáo Hội củng cố niềm tin cá nhân của chúng ta. Mỗi lễ Chúa Nhật, chúng ta tuyên xưng niềm tin của chúng ta qua kinh tin kính. Làm như vậy, chúng ta được cứu thoát khỏi hiểm nguy do tin vào thần thánh nào khác với đấng đã thể hiện bởi chúa Kito.
ĐỨC TIN KHÔNG PHẢI LÀ MỘT HÀNH VI LẺ LOI
Hãy nhớ lại câu #166 trong sách Giáo lý của Giáo Hội Công Giáo:
“Đức tin là một hành vi cá nhân, là sự đáp ứng tự do của con người đối với sáng kiến của Thiên Chúa mặc khải. Nhưng đức tin không phải là một hành vi lẻ loi. Không ai có thể tin một mình, cũng như không ai có thể sống một mình. Không ai tự cho mình đức tin, cũng như không ai tự ban sự sống cho mình. Người tín hữu đã nhận được đức tin từ một người khác và phải truyền đạt nó cho người khác. Tình yêu của chúng ta đối với chúa Giesu và tha nhân thúc đẩy chúng ta phải nói với họ về niềm tin của chúng ta. Như vậy mỗi tín hữu là một mắt xích của sợi dây chuyền vĩ đại của những người tin Chúa. Tôi không thể tin mà không cần được niềm tin của những người khác nâng đỡ, và nhờ đức tin của tôi, tôi cũng góp phần nâng đỡ đức tin của những người khác.”
CHÚA NHẬT LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Chúa Nhật lòng Chúa thương xót là lễ mừng Tình Yêu Chúa chiếu tỏa suốt tuần tam nhật phục sinh và toàn thể mầu nhiệm phục sinh. Lễ này nhắc lại truyền thống phụng vụ xưa, phản chiếu tuần bát nhật Phục Sinh nơi giảng huấn của thánh Augustin mà ngài gọi là “Ngày Thương Xót và Tha Thứ”, và chính tuần bát nhật thì là bản “Tóm Tắt những ngày thương xót.”
Lòng Chúa Thương Xót cũng phản ảnh nơi thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II khi ngài con trẻ ở Krakow. Chính mắt ngài đã chứng kiến biết bao tang thương khổ đau khi Đức Quốc Xã chiếm đóng Ba Lan. Rất nhiều người từng đoàn từng lớp bị đưa vào các trại tập trung lao động khổ sai. Ở Wadowice, tỉnh nhà của ngài thì các bạn bè của ngài người Do Thái sau này chết trong các lò sát sinh. Trong thời gian kinh hoàng sợ hãi ấy, cậu thanh niên Karol Wojtyla quyết định gia nhập chủng viện chui của Hồng Y Sapieha ở Krakow. Lúc đó thực sự ngài đã cảm nghiệm thấy lòng Chúa Thương Sot thật là cần thiết và tình nhân loại con người đối với nhau cũng không thể thiếu được. Ở Việt Nam hiện nay, tình trạng dân oan, mất nhà mất ruộng vườn, mất kế sinh nhai, đặc biệt dân 4 tỉnh miền Trung bị thảm họa cá chết do con người độc tài làm nhiễm độc dọc bờ biển miền Trung từ Nghệ An, Hà Tĩnh, Vinh đến Quảng Trị Thừa Thiên. Hàng ngàn hàng vạn người mất việc làm, mất kế sinh nhai vì biển bị chết, cá nhiễm độc không biết mấy chục năm nữa mới rửa sạch đươc. Ấy vây mà dân đi khiếu kiện, đòi bồi thường thì chính quyền dùng bạo lực đàn áp đẫm máu trong đó có cả linh mục. Giáo dân địa phận Vinh và toàn thể dân chúng miền Trung và Việt Nam cần có lòng Chúa thương xót, cần tình thương của HĐGMVN và mỗi người chúng ta, những người anh em đồng bào đồng đạo cùng con một cha chung ở trên trời.…
GIÁO HOÀNG CỦA LÒNG THUONG XÓT CHÚA
Khởi đầu triều đại của ngài năm 1981, GH Gioan Phaolo II đã viết một tông thư về lòng Chúa thương xót: “Dives in Misericordia / Giàu lòng thương xót” nói lên trọng điểm sứ mệnh của chúa Giesu Kito là biểu lộ lòng thương xót của Thiên Chúa Cha. Năm 1993, khi phong chân phước cho sơ Faustina Kowalska, Gioan Phaolo II -trong bài giảng lễ- đã nói: “Sứ mệnh của chân phước Faustina còn tiếp tục và sinh hoa trai một cách lạ lùng. Sự tận hiến của bà cho chúa Giesu thật kỳ diệu đang tràn lan trong thế giới ngày nay của chúng ta, và thấu đạt tới tâm can của biết bao nhiêu người.”
Bốn năm sau vào năm 1997, ĐTC viếng mộ chân phước Faustina ở Lagiewniki, Ba Lan và giảng một bài với những lời rất mạnh: “Không có gì mà con người cần hơn là cần lòng Chúa thương xót… Từ đó mới có sứ điệp lòng Thương Sót mà chính chúa Kito đã dùng để chuyển đạt cho thế hệ chúng ta qua chân phước Faustina.”
Vào năm toàn xá 2000, GH Gioan Phaolo II phong thánh cho sơ Faustina, vị thánh đầu tiên của tân thiên niên kỷ, đồng thời thành lập “Chúa Nhật Lòng Chúa Thương xót”, một danh hiêu đặc biệt cho Chúa Nhật thứ hai Phục Sinh trên toàn Giáo Hội. Ngài cũng nói những lời sau đây trong bài giảng: “Chúa Giesu đã chỉ tay và cạnh sườn người cho các môn đệ. Người chỉ những vết thương khổ nạn, đặc biệt vết thương ở Tim Người là suối nguồn chảy ra những đợt sóng vĩ đại của lòng Chúa Thương Xót đổ xuống cho loài người.”
Một năm sau, vào ngày chúa nhật lòng Chúa Thương Sót 2001, đức GH kêu gọi xứ điệp thương xót thánh Faustina:”Câu trả lời rõ ràng và thích hợp mà Thiên Chúa muốn để đáp ứng những vấn nạn và mong đợi của thời đại chúng ta, được đánh dấu bởi những thảm cảnh ghê gớm….Lòng Chúa Thương Xót! Đây chính là quà tặng Phục Sinh mà Giáo Hội nhận từ Chúa Kito phục sinh và ban cho loài người vào buổi bình minh của thiên niên kỷ thứ ba.”
Lại một lần nữa năm 2002 khi cung hiến tân Đền Thánh Chúa Thương Xót, ngài đã dâng cả thế giới cho lòng Chúa Thương Xót và nói: “Tôi làm như vậy với ước mong nồng cháy là sứ điệp lòng Chúa thương xót được tuyên bố bởi thánh Faustina, có thể được tất cả mọi người trên thế giới nhận biết và làm tràn đầy tâm can họ với niềm hy vọng.”
Trong bài phát biểu Regina Caeli vào ngày 23-4-2006, Biển Đức XVI đã nói:“Màu nhiệm lòng Chúa Thương Xót là trọng điểm của triều đại đấng tiền nhiệm đáng kính của tôi.” Năm nay là năm cũng cùng một ước vọng quan phòng đó về ngày Chúa Nhật Lòng Chúa Thương Xót, ba năm sau khi ngài được phong thánh vào cùng một ngày lễ, Gioan Phaolo II, người tông đồ vĩ đại và sứ giả của Lòng Chúa Thương Xót sẽ được tuyên bố là thánh.
LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ MỘT ĐẶC THÙ
Chúng ta phải tự hỏi có cái gì mới ở sứ điệp Lòng Chúa Thương Xót này? Tại sao đức Gioan Phaolo II lại nhấn mạnh đặc biệt đến hình thức Tình Yêu Chúa này trong thời đại chúng ta? Nó có giống như sự tận hiến của Trái Tim Cực Thánh Chúa không? Lòng thương xót là một nhân đức quan trong của người Kito hữu, khác với đức công bình và sự thưởng phạt. Khi nhận thức được cái đau thực sự của một vết thương và lý do của nó, lòng thương xót sẽ xét nhiều bước khác nhau để điều chỉnh vết thương. Lòng thương xót sẽ cố gắng thay đổi tận gốc rễ điều kiện và linh hồn của kẻ phạm tội để chống lại tội ác, thường là do sự biểu lộ tình yêu và vẻ đẹp thực sự của một người. Nếu bắt buộc phải có một hình phạt nào thì đó là mục đích cứu rỗi, không phải là trả thù hay thưởng phạt. Đây là một việc rất nhiêu khê ở thời đại chúng ta và là một sứ mệnh rất phức tạp….nhưng nó là cách duy nhất nếu chúng ta muốn tiến lên và hưng phấn cho thế giới ngày nay; nếu chúng ta thực sự muốn là muối và ánh sáng trong một nền văn hóa đã mất mùi vị của Tin Mừng và ánh sáng của chúa Kito.
Ở đâu có ganh ghét và hận thù thống trị, ở đó có chiến tranh mang lại đau khổ và chết chóc cho những người vô tội, ở đâu có lạm dụng hủy giệt mạng sống vô can ở đó hồng ân thương sót cần có để ổn định tâm trí con người mang lại hàn gắn và hòa bình. Bất cứ ở đâu mạng sống con người và nhân phẩm không được tôn trọng, ở đó có nhu cầu Tình Thương Xót Chúa, ở đó chúng ta nhận ra giá trị vô lường của mỗi con người. Lòng Thương Xót thì cần thiết để bảo đảm là mọi bất công ở trần thế này rồi sẽ qua đi. Sứ điệp về lòng thương sót mà Thiên Chúa ban cho tất cả chúng ta bất kể tội lỗi của chúng ta lớn nhỏ thế nào, bởi lẽ lòng Chúa Thương Xót thì lớn rộng hơn cả tội lỗi. Do đó chúng ta sẽ kêu xin Người với lòng tin tưởng thì chúng ta sẽ được lòng Chúa xót thương, và nó sẽ tràn ra qua chúng ta mà đến với tha nhân. Một đặc điểm của lòng thương xót là hiểu biết sự yếu đuối và có khả năng tha thứ.
THÁNH GIOAN PHAOLO II LÀ TÔNG ĐỒ CỦA LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Xuyên suốt sứ vụ linh mục và giám mục, đặc biệt suốt triều đại Giáo Hoàng của ngài, Đức Gioan Phaolo II đã giảng dạy, đã viết và nhất là đã sống Lòng Chúa Thương Xót. Ngài đã tha thứ cho tên đã chủ ý giết người ở công trường thánh Phero. Chình ngài đã chứng kiến cảnh chia rẽ giữa những người Kito Giáo và những tàn ác đối với người Do Thái. Khi lớn lên ngài đã làm tất cả mọi sự trong quyền hạn của mình để chữa lành những vết thương gây ra do tranh chấp lịch sử giữa những người Công Giáo và các giáo hội Kito giáo khác, đặc biệt với dân tộc Do Thái.
Hôm nay là ngày kỷ niệm phong thánh của ngài, người ta không thể quên được những lời ngài đã nói trong thánh lễ bế mạc đại hội giới trẻ thế giới tại Downsview Park ở Toronto, Canada. Những lời này đặc biệt nhắm vào tầm quan trọng và sự cần thiết của Lòng Chúa Thương Xót phải có trong Giáo Hội ngày nay.
“….Vào những lúc đời sống Giáo Hội gặp khó khăn thì sự theo đuổi nên thánh trở nên cấp thiết. Nên thánh không phải là vấn đề tuổi tác, nhưng là vấn đề sống trong Chúa Thánh Thần…”
“….Đừng để cho hy vọng bị chết đi! Bởi lẽ cuộc sống của các bạn là ở đó! Chúng ta không phải là tổng hợp tất cả những yếu đuối và thất bại, chúng ta là tổng hợp tình yêu Thiên Chúa Cha cho chúng ta và khả năng để trở nên hình ảnh của Con của Người.”
Hôm nay, chúng ta hãy vui vẻ cầu nguyện với tất cả lòng tri ân:
Lạy Thiên Chúa là đấng giàu lòng thương xót,
Là đấng đã muốn Thánh Gioan Phaolo II
Phải là Giáo Hoàng đứng đầu Hội Thánh hoàn vũ của Người
Chúng con cầu khẩn…
Xin Chúa ban cho chúng con được thấm nhuần giáo huấn…
Của Thánh Giáo Hoang Gioan Phaolo II.
Xin giúp tâm trí chúng con biết mở rộng
Để đón nhận hồng ân cứu chuộc của chúa Kito,
Là đấng duy nhất Cứu Chuộc loài người,
Là đấng hằng sống hằng trị Người trong hiệp nhất với chúa Thánh Thần,
Một Thiên Chúa đời đời chẳng cùng. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Nhân dịp phong thánh cho nữ tu Maria Faustina Kowalska, ngày 30/4 năm 2000, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã đặt tên cho Chúa nhật tiếp liền sau Đại Lễ Phục Sinh là Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, kính nhớ việc Chúa Kitô tỏ cho thánh Tôma thấy cạnh sườn, nơi trào ra nước và máu, suối nguồn ân sủng. Truyền thống Giáo hội đã coi đây như là nguồn gốc của bí tích hòa giải, nơi mà con người cảm nhận được sự tha thứ do lòng thương xót Chúa.
Cử chỉ trao ban bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh cho các môn đệ, biến các ông từ những người đang lo sợ và kinh ngạc, trở nên những tác viên của Lòng Chúa Thương Xót. Chúa đưa đôi tay và cạnh sườn còn in những dấu tích của cuộc thương khó và nói với các ông: ” Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con“. Nói thế rồi, Người thổi hơi và phán bảo các ông: “Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20, 21- 23). Chúa Giêsu trao phó cho các ông hồng ân “tha thứ các tội lỗi” diễn tả lòng xót thương vô bờ của Thiên Chúa đối với nhân loại, hồng ân này phát sinh từ những vết thương của đôi tay, đôi chân và nhất là của cạnh sườn Chúa bị đâm thâu qua. Đó là những vết thương hằn in trên cơ thể của Người lúc còn sống, ngay cả sau khi phục sinh. Những vết thương vinh quang, mà Tôma đã tận mắt chứng kiến tám ngày sau, thật không thể nào hiểu nổi và tin được lòng thương xót của Thiên Chúa. Từ đó, một làn sóng tình thương nhân từ đổ xuống trên toàn thế giới.
Chúa Kitô Phục Sinh đã ban tặng cho nhân loại hồng ân tha thứ, những con người lầm lạc đang bị thống trị bởi quyền lực sự dữ, của ích kỷ và sợ hãi, tình yêu của Thiên Chúa tha thứ tất cả, hòa giải tất cả và tái tạo tâm hồn, mang lại cho chúng nhân niềm hy vọng. Đó là tình yêu có sức biến đổi con tim và ban tặng bình an. Thế giới ngày nay đầy những thương tích về thể lý, tâm lý và luân lý cần thiết biết bao lòng thương xót của Thiên Chúa!
Chúa nhật Lòng Thương Xót Chúa, Giáo hội lặp lại câu Thánh Vịnh mà suốt cả tuần Bát Nhật Phục Sinh toàn thế giới ca vang: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thủa” (Tv 117, 1). Lòng từ bi mạnh hơn tội lỗi và sự chết, ngày nay, nhân loại vẫn đang tiếp tục thừa hưởng lòng từ bi tuôn trào từ những vết thương vinh hiển và từ Trái Tim của Chúa, nguồn mạch không bao giờ cạn.
Trái Tim của Chúa Kitô đã trao ban tất cả cho con người: sự cứu chuộc, ơn cứu rỗi và ơn thánh hóa. Từ Trái Tim Chúa xuất phát ra hai tia sáng chiếu tỏa thế gian mà theo lời Chúa giải thích cho thánh nữ, “hai tia sáng này tượng trưng cho máu và nước“. Máu nhắc lại hy tế trên đồi Golgotha và mầu nhiệm Thánh Thể; còn nước, theo hình ảnh phong phú của thánh sử Gioan, làm cho ta nghĩ đến bí tích Rửa Tội và hồng ân Chúa Thánh Thần (x. Ga 3, 5; 4, 14).
Lời kinh chúng ta vẫn đọc: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, diễn tả đúng thái độ mà chúng ta muốn có, để chúng ta đặt niềm tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào Thiên Chúa, Ðấng cứu độ duy nhất của chúng ta! Những tia sáng của lòng từ bi Chúa mang lại niềm hy vọng cho những ai cảm thấy mình bị đè bẹp dưới gánh nặng của tội lỗi. Chúa Giêsu Kitô là Tình Yêu và Lòng Thương Xót của Thiên Chúa nhập thể. Vậy, chúng ta hãy luôn tin tưởng nơi lòng thương xót của Chúa, là Ðấng luôn chờ đợi và yêu thương chúng ta, đừng bao giờ đánh mất sự tin tưởng nơi lòng thương xót nhẫn nại của Thiên Chúa, là Ðấng luôn luôn yêu thương, dịu hiền, chờ đợi và tha thứ cho chúng ta. Cả khi chúng ta xa rời, Thiên Chúa vẫn luôn gần gũi và sẵn sàng giang tay ra ôm ấp chúng ta vào lòng, nếu chúng ta trở về với Chúa.
Khi quảng diễn về lòng thương xót của Thiên Chúa, Đức Thánh Cha Phanxicô nói: “Dung mạo của Thiên Chúa là dung mạo của một người Cha đầy lòng thương xót, đầy nhẫn nại với chúng ta. Người thấu hiểu chúng ta, chờ đợi chúng ta và luôn tha thứ cho chúng ta mà không bao giờ mệt mỏi, nếu chúng ta chạy đến với Người với tâm hồn sám hối… Lòng thương xót sẽ biến đổi thế giới. Một chút lòng thương xót thôi cũng làm cho thế giới bớt lạnh lẽo và thêm công chính” (Kinh Truyền Tin, 17-03-2013).
Giờ kinh Truyền Tin ngày 11-01-2015, Đức Thánh Cha Phanxicô nói với dân chúng : “Ngày nay chúng ta rất cần đến lòng thương xót, Điều quan trọng là các tín hữu sống lòng thương xót ấy và đem vào các môi trường xã hội khác nhau”. Để hàng ngày cảm nghiệm được Lòng Thương Xót Chúa và thực thi lòng thương xót đối với tha nhân trong cuộc sống. Đức Thánh Cha Phanxicô mời gọi chúng ta xóa bỏ sự thờ ơ, ngài viết: “Chúng ta đừng sa vào thái độ thờ ơ lãnh đạm … đừng rơi vào trong thói quen đánh mất cảm xúc…” (x.Misericordiae Vultus số 15).
Ngài xác tín rằng, cốt lõi của Phúc Âm là tình thương, (x. Huấn từ 28-3-2014). Vì thế, theo nguyên tắc, tất cả mọi cơ cấu, nguyên tắc, luật lệ và tổ chức của Giáo Hội đều phải làm sao để hướng về và đạt đến đích điểm là tình thương (x. Niềm vui Phúc Âm,26-43). Bởi vậy, trong thực hành, Giáo Hội cần phải là một bệnh viện lưu động để chữa lành, chứ không phải chỉ mở cửa đón nhận tội nhân và nạn nhân trở về mà thôi (x. trả lời Phỏng Vấn 04-12-2014). Ngài muốn Giáo Hội phải đi đến tận rìa mép của xã hội để tìm kiếm các con chiên lạc đáng thương, thậm chí Giáo Hội phải ăn uống với thành phần đàng điếm và thu thuế tội lỗi (Huấn từ bế mạc Thượng Nghị Giám Mục Thế Giới ngày 18-10-2014).
Lạy Mẹ maria, Mẹ của Lòng Thương Xót, xin giúp chúng con duy trì lòng tín thác vào Con Mẹ. Lạy thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II, thánh nữ Faustina, xin trợ giúp chúng con, để chúng con được cùng với các thánh hướng nhìn về Ðấng Cứu Chuộc, và lặp lại lời nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Chúa“, bây giờ và mãi mãi. Amen.
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Con người có sự sống nhờ hơi thở của Thiên Chúa
Từ khởi thuỷ, sau khi dựng nên trời đất muôn vật, Thiên Chúa lấy bùn đất dựng nên A-đam. Mới đầu thân thể ông chỉ là một khối đất bất động, không có dấu hiệu của sự sống.
Thế rồi, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam (Sáng thế 2,7), tức thì A-đam bắt đầu mở mắt, cựa mình và vươn vai chỗi dậy thành một con người đầy sức sống.
Thế là nhờ hơi thở mà Thiên Chúa truyền cho, A-đam được tiếp nhận sự sống và trở thành thuỷ tổ loài người trên khắp địa cầu.
Tiếc thay, con người tuyệt vời được Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Ngài lại lâm vào vòng sa đoạ, đánh mất phẩm chất cao đẹp mà Thiên Chúa đã phú cho và phải mang lấy án phạt đời đời. Vì thế, Thiên Chúa phải lên kế hoạch kiến tạo một nhân loại mới.
Giáo Hội sơ khai có sự sống nhờ Thần Khí
Thế rồi, “vào ngày thứ nhất trong tuần – và cũng là ngày thứ nhất trong lịch sử nhân loại mới – nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. (Gioan 20, 19-20) mười một tông đồ tuy còn đó, nhưng các ông tự giam nhốt mình trong căn phòng u tối. Bấy giờ các ông như những thân xác không hồn, như những hình hài không còn sự sống.
Thế rồi, như thuở ban đầu, Thiên Chúa thổi hơi vào lỗ mũi A-đam để thông truyền sự sống cho ông, thì nay Chúa Giê-su cũng thổi hơi trên các tông đồ đang co cụm như những thân xác không hồn để thông ban Chúa Thánh Thần cho họ. “Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Gioan 20, 22)
Thế là từ đây, các tông đồ bắt đầu đón nhận sự sống mới. Các ông như những xác chết được hồi sinh, được trở nên can trường mạnh mẽ, thoát ra khỏi căn phòng đóng kín như hầm mộ u tối chôn vùi các ông suốt mấy tuần qua để ra đi khắp các nẻo đường, loan báoTin mừng cứu độ.
Giáo hội rất cần đón nhận Chúa Thánh Thần
Hôm nay, sau hai ngàn năm kể từ ngày Chúa Giê-su khai sinh nhân loại mới, đời sống thiêng liêng của Hội Thánh công giáo trong thế kỷ nầy dường như vẫn còn ù lì bất động như lúc các tông đồ chưa nhận được Thánh Linh. Một số nhà thờ ở Âu Mỹ phải đóng cửa vì thiếu tín hữu đến cầu nguyện và lãnh nhận bí tích. Một số giáo phận suốt nhiều năm trời không có linh mục mới. Nhiều tu sĩ từ bỏ đời sống tu trì. Nhiều giáo dân không còn mặn mà với việc lãnh nhận các bí tích…
Cho đến hôm nay, chúng ta vẫn còn e dè, sợ sệt, không dám dấn bước loan báo Tin mừng, y như các tông đồ sau biến cố Thầy Giê-su thụ nạn; chúng ta vẫn tự giam nhốt mình trong phòng kín như các môn đệ xưa. Thần Khí Thiên Chúa dường như chưa thấm nhập được vào tâm hồn, vào cuộc sống chúng ta.
Lạy Chúa Giê-su,
Hơn lúc nào hết, chúng con cần Chúa hiện đến thổi hơi truyền ban Thần Khí cho chúng con như xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào hình hài bằng đất của A-đam và như chính Chúa đã thổi hơi ban Thần Khí cho các tông đồ trong phòng hội; để chúng con được đón nhận sự sống thần linh; được vượt ra khỏi ngục tù do lười biếng và ích kỷ dựng nên; thoát ra khỏi ngôi mộ do chính chúng con tự đào lên để mai táng chính mình.
Xin cho chúng con luôn khao khát Thánh Thần như con thơ khát sữa mẹ, như cây cỏ khát mưa nguồn và luôn biết mở lòng đón nhận Thần Khí Chúa; nhờ đó, chúng con được hồi sinh, được trở thành những tông đồ nhiệt thành tích cực mang ơn cứu rỗi đến cho muôn người.
.
Lm. Trịnh Ngọc Danh
Sau khi sống lại, Chúa Giêsu đã hai lần chính thức hiện ra với nhóm các môn đệ như một cộng đoàn đức tin bé nhỏ lúc ban đầu. Lần thứ nhất, “ Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “ Bình an cho anh em!” Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ngài lại nói với các ông: “ Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: “ Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ.” ( Ga. 20: 19-23)
Sau khi Thầy Giêsu chết, có lẽ ông Tôma cũng rất đau khổ vì thất vọng; ông đã tự tách ra khỏi các tông đồ;vì thế, khi nghe các tông đồ khác bảo: “ Chúng tôi đã được thấy Chúa!” ông đã tuyên bố: “ Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Ông muốn kiểm chứng những gì các tông đồ khác nói. Ông đặt nghi vấn như thế cũng là chuyện thường tình, vì ông muốn nắm chắc những gì ông tin. Ông không mơ hồ nghe tin đồn. Tám ngày sau, Chúa lại hiện ra. Lần này ông đã quay trở lại với anh em, và ông đã được thỏa mãn yêu sách của ông. Ông đã thấy và đã tin. Ông đã tuyên xưng:“ Lạy Chúa của con, Lạy Thiên Chúa của con.” Chỉ đến khi quay lại với cộng đoàn, ông Tôma mới gặp được Đức Giêsu sống lại, và từ đó ông đã tìm lại được đức tin. Ông là biểu tượng cho nhiều người trong chúng ta hôm nay khi muốn chứng minh đức tin bằng khoa học; ngược lại, Chúa lại chúc phúc cho người không thấy mà tin.( Ga 20:24-29) .
Sau khi sống lại, Đức Kitô phục sinh đã chính thức hiện ra với các tông đồ vào ngày thứ nhất trong tuần, ngày các Kitô hữu tiên khởi họp nhau để cử hành phụng vụ; đây là thời điểm đặc biệt để Thiên Chúa hiện diện với cộng đoàn của Ngài, và mỗi khi tập họp để bẻ bánh cũng là mỗi lần đón nhận bình an và Chúa Thánh Thần để rồi ra đi làm chứng nhân cho Thiên Chúa. Nhưthế, ngày thứ nhất trong tuần đã trở thành ngày của công đoàn, ngày của gặp gỡ. Ngày Chúa nhật ngày nay là ngày hát mừng niềm vui phục sinh, ngày đón nhận ơn bình an của Thiên Chúa , đón nhận Chúa Thánh Thần để rồi lại ra đi làm chứng cho Thiên Chúa khắp thế gian như lời Đức Kitô phục sinh đã truyền dạy: “ Như Chúa Cha sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Ba công việc mà Chúa Giêsu phục sinh làm trước khi về trời là đem lại bình an cho các môn đệ, củng cố niềm tin của họ nhờ ơn Chúa Thánh Thần để rổi mạnh dạn tiếp tục công việc của Ngài ở trần gian: Từ bất an đến bình an, từ bình an đến vững tin, từ vững tin để ra đi làm chứng nhân.
Nhờ sống với cộng đoàn mà đức tin chúng ta không bị cô độc, lung lay. Đức tin của chúng ta cần được cộng đoàn nâng đỡ. Chính nhờ công đoàn mà chúng ta giải quyết được nghi ngờ, và duy trì được đức tin của mình. Chúng ta sống với tư cách là thành viên của một cộng đoàn của những kẻ tin. Đức tin chung của cộng đoàn giúp củng cố đức tin nơi mỗi người chúng ta. Cộng đoàn các Kitô hữu tiên khởi là một cộng đoàn luôn biết nâng đỡ nhau, cùng nhau cầu nguyện và thờ phượng Thiên Chúa, và sống phục vụ nhau trong tình yêu thương như sách Công Vụ Tông Đồ đã viết: “ Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơnsơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm nhưng người được cứu độ.” ( Cv 2:46-47)
Biến cố Đức Kitô phục sinh là nền tảng và là trung tâm của đời sống đức tin của Ki tô giáo, và chính Đức Giêsu chỉ cho chúng ta con đường đi tới.
.
ĐỨC TIN: LỜI ĐÁP TRẢ THÍCH ĐÁNG
JM. Lam Thy
Nói đến đức tin là nói đến vấn đề cốt tuỷ của tôn giáo. Bất cứ một tôn giáo nào cũng đều lấy đức tin làm trọng, bởi thế mới gọi những người theo tôn giáo ấy là tín hữu, tín đồ. Có tin thì mới yêu, có yêu thì mới theo và dốc một lòng vì tôn giáo mình tin theo để sống đạo một cách tốt lành, đó cũng là lẽ thường tình. Sách Giáo lý HTCG (số 142-143) đã khẳng định: “Nhờ mạc khải, ‘do tình yêu vô biên, Thiên Chúa vô hình ngỏ lời với con người như với bạn hữu. Người đối thoại với họ, để mời gọi cho họ hiệp thông với Người’ (Hiến chế về Mạc khải “Dei Verbum”, 2). Đức tin là lời đáp trả thích đáng của con người trước lời mời gọi của Thiên Chúa. Nhờ Đức Tin, con người đem tất cả trí khôn và ý chí của mình suy phục Thiên Chúa. Con người đặt trọn bản thân qui thuận Đấng mạc khải là Thiên Chúa (x. “Dei Verbum”, 5) : Thánh Kinh gọi cách đáp trả này là “sự vâng phục bằng Đức Tin” (x. Rm 1,5;16,26)”.
Tâm lý chung của con người chuyện gì cũng đòi phải được “trông thấy nhãn tiền” hoặc phải có chứng cớ xác thực, mới chịu tin. Không những thế, mà nhiều khi được thực mục sở thị, cũng vẫn còn có kẻ “không tin vào mắt mình”, mà lại đi tin vào những truyền thuyết hoang đường, những ma mị quỷ quái. Các Tông đồ (kể cả Tô-ma) cũng không ngoại lệ, các ông mới chỉ “nghe” thì chưa tin, mà còn phải được “thấy”, được “đụng vào” vật chứng mới tin. Và cũng chính cái tâm lý chỉ tin khi được “thực mục sở thị” đã đẻ ra tâm trạng hoài nghi. Thật vậy, chỉ vì được trông thấy nhãn tiền Thầy mình đã chết khổ nhục trên thập giá, đã được chính tay mình liệm xác Thầy và táng trong hang đá, thì làm sao tin được Thầy mình đã sống lại? Và vì thế nên khi thấy Thầy hiện ra thì “Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma” (Lc 24, 37). Ấy là chưa kể lúc Thầy còn sống và ở liền bên không rời một bước, vậy mà khi trông thấy nhãn tiền Thầy đi trên mặt biển đã vội hô hoán lên là “ma đấy!” (Mt 14, 22-33).
Cũng vì được thực mục sở thị nên sự kiện Chúa Giê-su Ki-tô bị bắt, chịu xét xử, bị kết án tử hình, chết treo thảm khốc trên thập giá, đã như một nỗi ám ảnh kinh hoàng tột đỉnh, khiến các môn đệ sợ hãi và tuyệt vọng. Không còn một tia hy vọng nào rọi vào tâm trí nữa. Tất cả là bóng tối và tảng đá liệm mồ Chúa đã trở nên như một tảng đá nặng nề khô cứng niêm kín tâm hồn họ. Đã bước sang ngày thứ ba kể từ khi Thầy tử nạn, các Tông đồ vẫn như đám gà con mất mẹ co cụm vào nhau; đến độ Chúa đã sống lại, hiện ra với bà Maria Mác-đa-la và sau đó là với 2 môn đệ trên đường Em-mau, bà và cả hai môn đệ này đã đi báo tin cho các môn đệ đang buồn bã khóc lóc, “Nhưng các ông cho là chuyện vớ vẩn, nên chẳng tin.” (Lc 24, 11). Với cái tâm trạng hoang mang, hoài nghi như vậy nên lần này “Các ông còn đang nói, thì chính Đức Giê-su đứng giữa các ông và bảo: “Bình an cho anh em!” Các ông kinh hồn bạt vía, tưởng là thấy ma, khiến Người phải quở trách: “Sao lại hoảng hốt? Sao lòng anh em còn ngờ vực? Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương có thịt như anh em thấy Thầy có đây?” Nói xong, Người đưa tay chân ra cho các ông xem.” (Lc 24, 36-43).
Lần hiện ra đó, Tô-ma không có mặt, nên khi nghe thuật lại, ông không tin. Ông nói thẳng thừng: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” (Ga 20, 25). Nếu nói về trực tính (nói thật, nói thẳng) thì Tô-ma cũng chẳng thua gì Phê-rô. Phê-rô không những không tin mà còn coi Thầy là ma, thì Tô-ma đòi xỏ ngón tay vào lỗ đinh, thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy, cũng là lẽ thường tình. Thực ra, đâu chỉ có Phê-rô và Tô-ma, mà vẫn còn cảnh “Khi thấy Người, các ông bái lạy, nhưng có mấy ông lại hoài nghi.” (Mt 28, 16), khiến “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy.” (Mc 16 14). Theo thường tình thế sự, chưa được trông thấy nhãn tiền thì chưa tin, điều đó không đáng trách, chỉ đáng trách khi đã được thực mục sở thị mà vẫn chưa tin. Thánh Tô-ma khi được kêu xỏ ngón tay vào lỗ đinh và đặt bàn tay vào cạnh sườn Thầy, thì ngay lập tức đã hoàn toàn xác tín bẳng lời nói xuất phát tự tâm can: “Lạy Chúa con! Lạy Thiên Chúa của con!”
Với Thánh Tô-ma thì “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin” (Ga 20, 29), nhưng còn những Ki-tô hữu sống xa các ngài 20 thế kỷ thì sao? Các tín hữu ngày nay tuy được mang tước hiệu Ki-tô hữu (bạn của Chúa Ki-tô), nhưng xem ra còn thê thảm hơn các môn đệ thủa xưa. Vẫn còn không ít người tin vào thần nhà thần bếp, thần cây đa cây đề, thần sông thần núi, thần sấm thần chớp, thần năm tuổi, thần hộ mệnh nọ kia… Và nếu có tin vào Đấng Ki-tô thì chỉ là tin trên môi trên miệng, chỉ cần sợ bóng sợ vía đã vội vàng “chối Thầy không chỉ ba lần mà có thể lên tới ba mươi lần ba” bằng cách cất bàn thờ vào một xó xỉnh nào đó để chưng hình lãnh tụ, khai vào lý lịch là không tôn giáo, theo đạo thờ ông bà v.v…và v.v… Chính vì thế, vấn đề thiết thân đặt ra luôn luôn và mãi mãi vẫn là củng cố đức tin, không thể khác hơn.
Tóm lại, hãy lắng nghe và để cho Lời Chúa thấm tận đáy lòng: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin!” Ấy cũng bởi vì: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” Dù người tín hữu ngày hôm nay không trực tiếp được “thực mục sở thị” mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh, nhưng biết bao nhiêu chứng nhân (từ các Tông đồ tiên khởi, các Thánh sử đến các vị Hiển Thánh, nhất là các Thánh Tử Vì Đạo) cùng với không ít chứng tá đã minh họa cho mầu nhiệm cao vời khôn ví đó. Mầu nhiệm đó chính là “Lòng Thương Xót Chúa” trải dài theo lịch sử loài người, từ “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng thương xót những ai kính sợ Người… Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại lòng thương xót dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời.” (Lc 1, 50-54).
Muốn được hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa cách viên mãn, thì không gì bằng chạy đến với Đức Mẹ Lòng Thương Xót (“Như vậy Đức Maria là người biết thấu đáo hơn cả về mầu nhiệm lòng Thiên Chúa thương xót. Người biết giá của mầu nhiệm ấy và biết nó lớn lao biết chừng nào. Trong ý nghĩa ấy, chúng ta cũng gọi người là Mẹ của lòng thương xót: Đức Bà có lòng thương xót hay Đức Mẹ của lòng Thiên Chúa thương xót; mỗi tước hiệu này đều có một ý nghĩa thần học sâu sắc, bởi vì đều nói lên việc tâm hồn và tất cả con người Đức Mẹ đã được chuẩn bị đặc biệt để người có thể trước tiên, thông qua các biến cố phức tạp của Israel rồi thông qua các biến cố liên quan tới mọi người và toàn thể nhân loại mà thấy được lòng thương xót, ai ai cũng được hưởng phần “suốt đời nọ đến đời kia” theo ý định đời đời của Ba Ngôi Chí Thánh.” – Thông điệp “Thiên Chúa Giàu Lòng Thương Xót – Dives In Misericordia”, số 9).
Người Ki-tô hữu ngày hôm nay còn đợi chờ gì nữa mà không cất cao lời tuyên xưng: “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài” như Thánh nữ Faustina (1905-1938). Song song với lời tuyên xưng đức tin đó, hãy cầu nguyện với Đức Mẹ Lòng Thương Xót, xin Mẹ dạy dỗ, che chở, cầu bầu, để “Nhờ Mẹ, con đến với Chúa – Ad Jesum per Mariam”. Ôi! “Lạy Chúa! Con tin tưởng nơi Ngài. Lạy Mẹ Maria rất thánh, Mẹ Sầu Bi của chúng con, xin dạy chúng con nhận biết giá trị của thánh giá trong đời sống chúng con, để bất cứ những gì đang thiếu vắng sự đau khổ của Chúa Kitô chúng con có thể lấp đầy thân xác của chúng con cho nhiệm thể của Chúa, chính là Giáo hội của Chúa. Và khi hành trình của chúng con nơi dương thế chấm dứt, chúng con sẽ được sống vĩnh cửu với Mẹ trên Nước Trời. Amen.” (Kinh Cầu Cùng Đức Mẹ Kibeho – Đức Mẹ Lòng Thương Xót).
.
AM. Trần Bình An
Mục sư Billy Graham cũng có lúc nghi ngờ. Năm 1949, lúc đó Billy Graham được 30 tuổi, đã làm thế giới lưu ý qua các buổi truyền giảng bắt đầu ở Los Angeles. Theo hồi ký của ông viết, ông Templeton, người trở nên nhà truyền giáo nổi tiếng trước ông Graham 15 năm, đã xây dựng một Thánh đường với 1200 chỗ ngồi, đã đưa ra nhiều câu hỏi thần học mà ông Billy Graham không đủ thông minh, kiến thức thần học để giải đáp.
Ông viết: “Sự nghi ngờ, thắc mắc tràn ngập lòng tôi. Tôi dùng Kinh Thánh để tìm câu trả lời. Tôi cầu nguyện van nài Chúa giúp tôi.” Cuối cùng, với lòng nặng nề ông rảo bước dưới ánh trăng tại vùng núi San Bernardino. Tay cầm chặt quyển Kinh Thánh, ông quỳ gối và thú nhận với Chúa rằng, ông không thể giải đáp những thắc mắc, những câu hỏi, những nghi ngờ trong lòng của ông cũng trong lòng người bạn của ông là Templeton.
Sau cùng tôi cầu nguyện như sau: “Lạy Cha, con sẽ chấp nhận mọi điều qua lời của Cha bằng đức tin. Con sẽ để đức tin của con vượt lên trên những câu hỏi, nghi ngờ và con tin rằng quyển Kinh Thánh này là lời của Chúa”.
Ông đứng lên ràn rụa nước mắt và ông nhận ra quyền năng của Đức Chúa Trời bao phủ con người ông, điều mà bao lâu nay ông chưa từng có cảm giác đó. Ông nói: “Không phải tất cả nghi ngờ của tôi đều được Chúa trả lời, nhưng một cây cầu lớn đã bắt ngang và tôi bước qua. Tôi không còn bận tâm đến những nghi ngờ chưa có câu trả lời. Nó đã từng làm cho tôi gần như mất cả tâm thần của tôi một thời gian khá lâu. Lòng tôi, trí óc tôi cho tôi biết rằng tôi vừa chiến thắng trong một trận đấu tâm linh.”
Trong khi đó ông Templeton vẫn tiếp tục sống nặng trĩu với những nghi ngờ trong lòng và cuối cùng ông bỏ công tác mục vụ, di chuyển sang Canada, trở thành một nhà bình luận, viết tiểu thuyết vô thần. Nghi ngờ là điều không ai tránh khỏi trên bước đường theo Chúa. Nhưng đừng giữ mãi trong lòng. (theoBaptist Church)
Mục sư Billy Graham đã vinh dự gặp được Chúa qua cầu nguyện, qua hiệp thông Lời Chúa, Kinh Thánh và qua linh cảm đức tin. Hôm nay Tin Mừng Gioan tường thuật Tông đồ Tôma đã nghi ngờ Đức Giêsu phục sinh. Nhưng với lòng từ bi nhân ái, Đức Giêsu đã cho ông hạnh ngộ, thoả mãn mong ước cháy bỏng. Lời Chúa nêu ra những yêu cầu cần thiết để được gặp Chúa. Đó là cầu nguyện, hiệp nhất và nhất là nhờ Lòng Chúa Thương Xót.
Cầu nguyện
“Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái, Chúa Giêsu hiện đến, đứng giữa các ông và nói rằng: “Bình an cho các con.” Điều quan trọng nhất để có thể hạnh ngộ với Chúa, chính là siêng năng cầu nguyện, như các Tông đồ đã tụ họp nhau hiệp ý. “Tất cả các ông đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện cùng với mấy người phụ nữ, với bà Maria thân mẫu Đức Giêsu, và với anh em của Đức Giêsu.” (Cv 1, 14)
Trong những khi gian nan khốn khó, thánh Phaolô luôn mời gọi tín hữu Kitô cầu nguyện. “Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện.” (Rm 12, 12)
Hiệp nhất
Các Tông đồ đã phải tan đàn xẻ nghé, khi Thầy Giêsu chịu khổ nạn và chịu chết trên thập giá. Nhưng ngay sau đó, ân hận, sám hối, các ông đã can đảm tìm về với nhau, hiệp nhất đoàn tụ, nên Đức Giêsu thương yêu trở lại, hiện diện giữa họ. Bởi vì “Ở đâu hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20)
Đức Giêsu liền chúc bình an cho các ông, giữa bầu khí còn căng thẳng, khi thế lực đen tối còn trấn áp đe doạ. Khi nói điều đó, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn Người. Bấy giờ các môn đệ vui mừng vì xem thấy Chúa. Chúa Giêsu lại phán bảo các ông rằng: “Bình an cho các con. Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.”
Lòng Thương Xót
Tông đồ Tôma vắng mặt khi Đức Giêsu hiện ra lần đầu với các Tông đồ, liền tỏ ra nghi ngờ, không nghe các đấng tường thuật lại. Bất cứ ai đi theo Chúa, cũng khó tránh khỏi thử thách này. Nhưng Tôma không hề sĩ diện giấu kín, mà công khai chia sẻ nỗi niềm, nên Chúa đầy Lòng Thương Xót, hiện ra an ủi.”Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin.”
Nhiều khi thiếu khiêm nhường, thiếu lòng tin, thiếu niềm cậy, thiếu đức mến, người Kitô hữu cũng thường bắt chước ông Tôma yêu cầu Chúa chiều theo ước muốn, nguyện vọng, ý riêng, mà không đếm xỉa đến đức vâng lời, tìm hiểu và tuân theo Thánh Ý Chúa, hoặc nghe theo những lời khuyên bảo tốt lành của Chủ Chăn. Thế còn là chiên ngoan của Chúa nữa chăng? Vậy đừng làm dụng, thử thách Lòng Chúa Thương Xót kẻo bị án luận phạt.
“Các Tồng Đồ đã khiêm tốn thuật lại trong Phúc Âm đức tin yếu hèn của họ, để chúng ta mạnh tin hơn.” (Đường Hy Vọng, số 279)
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, xin thương xót huấn cải, đổi mới tâm hồn chúng con, để chúng con được vinh dự tái sinh trong ánh sáng Chúa sống lại.
Khấn xin Mẹ Maria dạy chúng con khiêm hạ, vâng phục và đơn sơ, cùng cầu bầu chúng con được sống lại cả xác lẫn hồn, nhờ ơn cứu chuộc của Đức Giêsu Kitô hằng sống. Amen.
.
TỬ NẠN VÀ PHỤC SINH LÀ DẤU CHỈ CỦA LÒNG THƯƠNG XÓT
P. Trần Đình Phan Tiến
Thưa quý vị, thưa các bạn Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật của LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT, tại sao vậy ? ! Chắc chắn chúng ta biết rồi, bởi vì Vị thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II đã cảm nghiệm được “Lòng Chúa thương Xót “ qua trang Tin Mừng hôm nay.
Trang Tin Mừng hôm nay, ai cũng có thể biết có hai phần :
- Phần thứ I : Chúa Giêsu hiện ra với các môn đệ cho các ông xem “Dấu Tích Tử Nạn”
- Phần thứ II : Chúa Giêsu cho môn đệ Tôma xem “ Dấu Chứng Phục Sinh”
Như vậy, từ “ Dấu Tích Tử Nạn “ mà “ chiều ngày ấy”, ngày thứ nhất trong tuần, có nghĩa là chiều Chúa Nhật sau khi Chúa sống lại, thì Người chủ động hiện ra với các môn đệ, trong bối cảnh các ông đáng ở trong nhà đóng kín cửa, vì sợ người Dothai.
Người hiện ra và cho các ông “xem tay và cạnh sườn”. Đồng thời cũng là “dịp” ban Bình An cho các ông. Bởi vì, các ông đang trong tâm trạng sợ hãi.
Tiếp đến , Người ban Thánh Thần, như vậy, chúng ta thấy “Bình An và Thánh Thần”, thật cần thiết và quý giá vô cùng, có thể nói thứ “gia tài” mà Chúa Giêsu để lại cho Giáo Hội qua các tông đồ. Theo đó, Thánh Thần đi kèm với ơn tha tội, chúng ta thấy ơn “ Bình An “ là đặc sủng bởi Chúa Cha : “ Bình An cho anh em ! Như Cha đã sai Thầy, thầy cũng sai anh em !” ( c 21)
Như vậy, ơn bình an sau phục sinh là một “đặc ân” từ Chúa Cha ban qua ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu, một đặc ân trọng đại mà nếu không có cuộc “Tử Nạn ” của Chúa Giêsu thì không thể có, có thể nói, ơn bình an xuất phát từ” Dấu Tích Tử Nạn” của Chúa Giêsu, đồng thời thể hiện “Lòng Thương Xót” của Thiên Chúa. Vì, “ Thiên Chúa đã quá yêu thế gian đến nỗi ban một Người Con cho thế gian, để ai tin Người Con đó thì được sống đời đời” ( Ga 3, 16).
Và chúng ta nhớ lại “sự ban bình an “ nầy đã được Người “để “ lại trước lúc chịu Tử Nạn ( Ga 14, 27) . Nhưng, sau khi phục sinh thì mới ban Thánh Thần. Như vậy, Bảy Bí Tích phát ra , xuất phát từ cạnh sườn của Người. Rõ ràng “ Lòng Thương Xót” chính là “các phép Bí Tích” bởi Chúa Giêsu. Bí Tích có nghĩa là sự chứa đựng mầu nhiệm từ Thiên Chúa.
Theo đó, đây chính là lúc Chúa Giêsu ban “Bí Tích Thêm Sức” cho các tông đồ, Bình An và Thánh Thần là Bí Tích Thêm Sức, đồng thời là Bí Tích Tha tội. Như vậy, quyền tha , phạt cảu Hội Thánh chính là lúc nầy.
- Phần thứ hai : Tỏ lộ cho Tô-ma.
Thánh Tô-ma là vị tông đồ “làm chứng” cho tất cả những ai không phải là tông đồ trực tiếp từ Chúa Giêsu. Vì nhờ thánh Tôma mà những ai “Tin” vào Chúa Giêsu nhưng không nhìn thấy, thì lại là người có phúc. Được xem thấy, thì đã được phúc rồi, nhưng thấy rồi cho dù không tin cũng không còn quan trọng nữa. Như vậy, đức tin mà được nhìn thấy, thì không phải là đức tin trọn vẹn, vì thấy rồi không cần tin nữa.
Vậy, “tin” là điều mình được nghe thấy, không hẳn phải được nhìn thấy. Nếu đòi hỏi nhìn thấy mới tin như thánh Tôma , thì thật là “vô phúc”, bởi vì, Thiên Chúa không chiều theo ý riêng của phàm nhân, nhưng , vì , “Lòng Thương Xót”, Người đã mặc khải cách lạ lùng cho nhân thế.
Như vậy, khi hiện ra lần thứ hai với các môn đệ, có To6ma, Chúa Giêsu mặc khải cách tỏ tường và đáp ứng đòi hỏi của Tôma là để minh chứng cho muôn thế hệ không thể đòi hỏi như Tôma được. Bởi vì, “niềm tin “ là một ân ban nhưng không , cách lạ lùng từ Thiên Chúa, chứ không phải từ con người, Thiên Chúa yêu thương con người do bởi “Lòng Thương Xót”, chứ không do bởi sự “thỏa mãn” tính hiếu kỳ của thế nhân.
Như vậy, lòng tin mà được xem thấy là lòng tin không được chúc phúc, vì phúc đã được thấy rồi, còn lòng tin “không, chưa được” nhìn thấy” là lòng tin “tron vẹn”, bởi vì, Thiên Chúa không biểu lộ sự nhiệm mầu cho phàm nhân tội loại, nhưng biểu lộ cho những ai “xứng đáng” lãnh nhận ơn cứu độ. Nếu gọi là ” xứng đáng” thì chỉ một mình Chúa mới biết lòng tin của họ.
Thánh Tôma thường bị “gán “ cho là cứng lòng, nhưng, thật ra, Tôma là “chứng nhân ” của lòng tin xác thực. Lòng tin của ông là tình thương cách lạ lùng bởi Thiên Chúa, bởi vì, muôn thế hệ bước theo Chúa Giêsu không phải ai cũng ” được tin “ như Tôma và như Chúa nói : “ Con đã thấy Thầy, nên con tin. Phúc cho những ai không thấy mà tin “ ( c 29).
Như vậy, không phải lòng tin của Tôma không được chúc phúc, mà là một lòng tin “mãnh mẽ” hơn, xác quyết hơn, thánh Tôma là vị tông đồ có sứ mạng đặc biệt riêng. Như vậy, bên cạnh “ lòng tin” được nghe thấy, còn có một chứng nhân làm chứng về lòng tin xác thực. vâng, nếu ai đó có một “lòng tin” đạo dòng , dễ dàng kinh thường thánh Tôma, tại sao ông ấy hèn tin thế ? Nhưng, sứ mạng Tôma cho chúng ta một sứ mạng cho thế giới nầy biết Chúa Giêsu”hằng sống” bằng xương, bằng thịt cách cụ thể và cho biết rằng “chỉ có một “ Tôma, cũng chính ông đại diện duy nhất cho những “kẻ” đòi niềm tin “kiểm chứng”.
Còn có biết bao kẻ vô thần cũng đang sống, đang hít thở khí trời, ăn cơm gạo từ mặt đất, uống nước từ lòng đất mẹ, nhưng, họ không sống bởi “niềm tin” có Thiên Chúa, như vậy, sự sống ấy thật vô nghĩa và giả tạo. Những kẻ ấy đòi lòng tin như Tôma, thì thật vô nghĩa.
Theo đó, tất cả chỉ hệ tại “LÒNG THƯƠNG XÓT “ bởi Thiên Chúa mà thôi.
Lạy Chúa Giêsu phục sinh, sự sống từ Chúa chính là cuộc Tử Nạn và Phục Sinh vì Chúa là Đấng mang lại nguồn sống từ Thiên Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử. Xin cho muôn thế hệ nhận biết và tôn thờ chân lý ấy, vì Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời./. Amen.
.
Lm. Jos. DĐH.
Dân gian có câu: tướng bại trận không thể nói mạnh, quan mất nước làm sao nói hay ? Thành công – thất bại, thắng – thua, được – mất, ít nhiều cũng là nguyên nhân làm thay đổi suy nghĩ đối với hoàn cảnh khó khăn, hay thuận lợi của mình. Thừa thắng xông lên của những kẻ đã đóng đinh Đức Giêsu, họ muốn bắt giam tất cả những ai dám xưng mình là môn đệ Đức Giêsu. Đau khổ, chán nản, khiến một số các đồ đệ Đức Giêsu tìm lối về quê làm ăn, sợ bị truy lùng, sợ bị xét hỏi, một số môn đệ cửa đóng then cài, không phải là điều khó hiểu. Còn gì để tự hào vì bao ngày tháng các ông theo Đức Giêsu vừa tài giỏi, vừa đức độ ; còn gì để nói, khi Thầy Giêsu trút hơi thở, được chôn vùi trong huyệt đá.
Quan niệm hết sức tự nhiên, sống là người, chết là ma, và đối tượng yếu bóng vía, sợ ma quỷ trêu chọc, chắc không phải chỉ là trẻ em phụ nữ, mà còn có cả người nói hay nói giỏi nữa. Còn gì để nói tới người đã khuất, nếu không phải là kỷ niệm, còn chút gì để thoát khỏi những ám ảnh về tội tham sống sợ chết, nếu không phải là hối lỗi ăn năn ? Điều gì có thể làm người ta thức tỉnh, chắc không phải do may mắn tình cờ, không đơn thuần nghĩ rằng: tình thế dù có tốt hay xấu rồi cũng thay đổi, đúng hơn là do thời gian đã làm sáng tỏ những kẻ yêu thương nhau. Câu chuyện người chết trở về mà Tin mừng phục sinh nói tới, sẽ lý giải phần nào Chúa sống lại là vì yêu chúng ta, vì Chúa sẽ tiêu diệt bóng đêm sự chết cho chúng ta.
Các môn đệ thiết tưởng sẽ không còn gì để nói khi mà mọi hy vọng của họ tan biến theo Thầy Giêsu vào cõi chết, nhưng không, các ông lại muốn nói với chúng ta nhiều điều khi các ông gặp Đấng phục sinh. Bằng mắt xác thịt, các ông chỉ nhìn thấy đau khổ, mất mát, bằng mắt thường các ông chỉ thấy Đấng chịu đau khổ, Đấng chịu đóng đinh thập giá. Bằng mắt tâm hồn, Đấng phục sinh muốn các môn đệ mở lòng, mở trí để nhận biết Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì yêu thì cũng sống lại vì yêu. Suy tư về khổ đau thập giá của Thầy, kinh nghiệm về sự nhút nhát của chính bản thân người học trò. Các ông ngộ ra: chỉ nơi Đức Giêsu mới có sự sống lại, không ai đủ bản lĩnh để tự thắng mình, thắng cám dỗ, nếu không có Đấng phục sinh trợ giúp.
Ngày hôm nay, người ta rút ra được nhiều kinh nghiệm của tiền nhân: ba năm học nói, một đời học cách lắng nghe. Chúa phục sinh không cần các môn đệ nói nhiều, mơ ước nhiều, nhưng Ngài cần họ biết lắng nghe và nói lời thân thương nhất bằng hành động của khối óc và con tim. Ngày hôm nay, các môn đệ vẫn đang nói rất nhiều với chúng ta về lòng thương xót của Đấng phục sinh, Đấng chịu khổ hình thập giá và Đấng phục sinh đều là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Lúc này đây, Chúa phục sinh đang sống lại nơi tâm hồn người tính hữu, Ngài kêu gọi chúng ta hãy nói về tình yêu, hãy mặc lấy tâm tình khiêm tốn để biết nói xác tín như Tôma: “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
Trong bài thơ “Thói Đời” của Nguyễn Bỉnh Khiêm có những câu: thế gian biến đổi vũng nên đồi, mặn nhạt chua cay lẫn ngọt bùi ; còn tiền còn bạc còn đệ tử, hết tiền hết bạc hết ông tôi. Tác giả bài thơ như đã kinh qua nhiều đắng cay giữa tình đời, và ông còn chua xót biết bao về tình người sớm đổi thay. Vào buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần, Đấng phục sinh đến với các môn đệ, Ngài chào chúc bình an, và ban Thánh Thần tình yêu. Tám ngày sau, Đấng phục sinh đến với các môn đệ vẫn mang một thông điệp: “bình an cho các con”, nhưng lần sau thì Ngài mời gọi Tôma kiểm chứng thương tích của Ngài. Đấng phục sinh sẽ không ai oán về tình đời, tình người, nhưng Ngài sẽ nói với các môn đệ, nói mãi với muôn thế hệ về lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho con người.
Những thầy giỏi trò ngoan rồi sẽ đi vào quên lãng, vì tuổi cao sức yếu, nhưng tình đời, tình người, sẽ tồn tại mãi khi các tương quan gia đình, xã hội, khi tình yêu và lòng bao dung được đặt để trong đó. Hãy chôn quá khứ để hiện tại không bị xáo trộn, hãy để Đấng phục sinh xóa đi tội lỗi để ơn bình an còn ở mãi trong lời nói việc làm của từng người chúng ta. Chúa phục sinh không cần các môn đệ đòi lại công lý cho tình thầy trò, Chúa phục sinh cũng không cần các môn đệ hứa hẹn một tâm tình mới. Có chăng Ngài muốn những ai thuộc về Đấng Kitô hãy thể hiện tình yêu của mình với Đấng phục sinh cách chân thành rõ ràng: “phúc cho những ai không thấy mà tin”. Amen.
.
Lm. JB Nguyễn Minh Hùng
Nhìn lại cả dòng lịch sử cứu độ, chúng ta nhận ra, trong tương quan giữa Thiên Chúa và loài người có hai chiều trái ngược nhưng cứ song hành bên nhau; khác biệt nhưng cứ tồn tại. Đó là: Một bên loài người yếu đuối, tội lỗi, đầy bất trung. Còn bên kia, đối lại, Thiên Chúa quyền năng luôn nhẫn nại, luôn giàu lòng xót thương và sẵn sàng tha thứ.
Loài người càng bất trung, lòng tín trung và sự nhẫn nại của Thiên Chúa càng được thể hiện. Tội lỗi loài người càng nặng, sự tha thứ của Thiên Chúa càng đậm đà. Yếu đuối của loài người luôn được nhận thấy bằng sự đỡ nâng vô bờ bến của ân sủng và lòng xót thương. Tội lỗi làm cho loài người vong thân, thì tình yêu bền vững của Thiên Chúa càng lớn để cứu vớt, để mở ngỏ cho loài người hằng có lối quay về.
Sự tha thứ của Thiên Chúa dành cho loài người là vô giới hạn. Ơn tha thứ khắc sâu khuôn mặt xót thương của Thiên Chúa. Nó cần thiết để mang từng người đến gần Thiên Chúa, mỗi khi họ ý thức về những sa ngã, lỗi phạm của mình.
Vì thế, dù chúng ta là những kẻ thường xuyên lầm đường lạc lối, Chúa vẫn không từ nan bất cứ điều gì, miễn là được dang rộng vòng tay đón nhận. Chúa đón nhận lòng ăn năn thống hối của từng người, khi quyết trở về với Chúa.
Lòng thương xót của Chúa luôn mời gọi để được trao ban, luôn chờ đợi để được đáp trả, luôn sẵn sàng để được cống hiến, luôn thổn thức nếu bị làm ngơ ngoảnh mặt.
Hơn ai hết, Chúa Giêsu biết rõ sự cần thiết này của ơn tha thứ, nên vừa phục sinh, ngay sau khi trao ban một chuỗi đầy nghĩa xót thương: ơn bình an (x.Ga 20, 19), ơn nối tiếp sứ mạng truyền giáo (x.Ga 20, 21), ơn Chúa Thánh Thần (x.Ga 20, 22), lập tức Đấng Phục Sinh ban ơn tha thứ: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23).
Còn Hội Thánh, nhận lãnh sứ mạng và kho tàng ơn tha thứ từ Chúa Kitô, chính là nhận lãnh bí tích của tình thương hãi hà mà Thiên Chúa trao ban qua Chúa Kitô. Hội Thánh luôn ý thức tầm quan trọng và cần thiết của bí tích xót thương ấy.
Hội Thánh nhấn mạnh:
– “Những ai đến nhận lãnh Bí tích Hòa Giải đều được Thiên Chúa nhân từ tha thứ những xúc phạm đến Người. Đồng thời, họ được giao hòa cùng Giáo Hội mà tội lỗi họ đã làm tổn thương. Nhưng Giáo Hội hằng nỗ lực lấy đức ái, gương lành và kinh nghiệm để hoán cải họ” (Lumen Gentium số 11).
– “Không có hành vi nào có ý nghĩa hơn, có hiệu quả thần linh hơn hay cao quý hơn, và đồng thời xét như là nghi thức, lại gần tầm tay cho bằng Bí tích Hòa Giải” (Giáo hoàng Gioan Phaolô II, Tông huấn Reconciliatio et Paenitentia – Hòa giải và Sám hối, số 28).
– “Bí tích Giao Hòa không những chữa lành hối nhân vừa được hiệp thông lại với Hội Thánh, mà còn làm cho Hội Thánh thêm sức sống sau khi đã phải đau khổ vì tội lỗi của các chi thể” (GLCG số 1469).
Hội Thánh sung sướng trao ban ơn tha thứ cho từng hối nhân, qua đó:
– Hội Thánh cũng muốn công bố cho toàn thế giới về lòng xót thương tha thứ của Thiên Chúa là cao cả, lớn lao, lớn đến không có bất cứ bến bờ nào.
– Hội Thánh trao ban ơn huệ của lòng Thiên Chúa xót thương, giúp từng người xác tín vào tình thương không biết đến quá khứ mà chỉ là hiện tại và tương lai rộng mở với tất cả sự tín nhiệm, tin tưởng, đầy tràn hy vọng mà Thiên Chúa dám đặt nơi thụ tạo của Người.
– Hội Thánh dạy, chính Thiên Chúa dẫn đưa những người được cứu độ đến với Hội Thánh (x.Cv 2, 47) và mỗi hối nhân là đối tượng tình yêu của Thiên Chúa. Từng người trong cộng đoàn Hội Thánh đã được lòng thương xót của Người triệu tập, là cộng đoàn đã được thương xót và đồng thời cũng là dụng cụ của lòng thương xót.
– Hội Thánh mang sứ mạng tha thứ không ngừng, tha thứ vô cùng. Qua đó dạy cộng đoàn gồm tất cả con cái mình cũng tha thứ cho nhau cách quảng đại, nhân ái, đầy lòng thương xót như Chúa của mình từng đòi hỏi: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy” (Mt 18, 22).
Và như vậy, nơi bí tích của lòng xót thương tha thứ, không chỉ lãnh nhận lòng thương xót của Thiên Chúa, chúng ta còn được mời gọi trở nên những nhân chứng cho lòng thương xót bằng cách đem tha thứ và tình thương vào giữa thế giới còn nhiều thờ ơ, vô cảm, bạo lực, hận thù:
“Thế giới loài người chỉ có thể ngày càng mang tính người hơn khi nào chúng ta đưa vào trong mọi quan hệ hỗ tương giữa người với người sự tha thứ theo Tin Mừng. Sự tha thứ cho thấy rằng trong thế giới tình thương mạnh hơn tội lỗi. Hơn nữa, tha thứ là điều kiện trước tiên của sự hòa giải, chẳng những trong các tương quan giữa Thiên Chúa với con người, mà còn trong những tương giao giữa người với người” (Gioan Phaolô II, Dives in misericordia – Thiên Chúa giàu lòng thương xót, số 14).
Riêng từng người tín hữu, hãy nhớ rằng, bí tích tha tội là bí tích của lòng Thiên Chúa thương xót. Lòng thương xót của Thiên Chúa luôn chờ đợi để trao ban tình yêu tha thứ, trao ban sự sống vĩnh cửu. Vì thế, mọi tín hữu đừng ngần ngại, nhưng hãy siêng năng tìm đến bí tích của lòng thương xót mà hòa giải cùng Thiên Chúa, mà lãnh nhận mọi ân huệ tuôn trào từ lòng thương xót vô cùng ấy.
Chúng ta hãy sung sướng mà cầu nguyện bằng lời Thánh vịnh để tri ân tình yêu thương xót và tha thứ đến vô cùng mà Thiên Chúa dành cho mình: “Hạnh phúc thay, kẻ lỗi lầm mà được tha thứ, người có tội mà được khoan dung. Hạnh phúc thay, người Chúa không hạch tội, và lòng trí chẳng chút gian tà.
Bao lâu con lặng thinh không thú lỗi, thì gân cốt rã rời, cả ngày con gào thét. Vì ngày đêm con bị tay Ngài đè nặng, nên sức lực hao mòn, như bị nắng mùa hè thiêu đốt. Bởi thế, con đã xưng tội ra với Ngài, chẳng giấu Ngài lầm lỗi của con. Con tự nhủ: ‘Nào ta đi thú tội với Chúa’, và chính Ngài đã tha thứ tội vạ cho con” (Tv 32, 1-5).
.
Lm. JB. Vũ Xuân Hạnh
Trước kia, khi mới dạy giáo lý dự tòng, cầm cuốn giáo lý là tôi dạy từ đầu đến cuối. Nhưng sau này, tôi lại làm ngược lại: dạy phần cuối cùng trước, rồi đi lên dần. Có nghĩa là tôi bắt đầu dạy các dự tòng cầu nguyện trước tiên, sau đó dạy về luân lý, cuối cùng mới là phần tín lý.
Vì sao tôi lại làm chuyện xem ra ngược đời như thế? Vì tôi nghĩ, một người mới bắt đầu theo Chúa, họ phải được gặp Chúa trước, để từ đó họ sống với anh em. Vì nghĩ như thế, tôi giúp họ cầu nguyện trước.
Tôi cũng từng “xé” ngang giáo để hướng dẫn đời sống phục vụ, mời gọi anh chị em của mình sống phụng vụ và bí tích…
Từ đời sống cầu nguyện bắt đầu chớm nở đó, tôi nói với họ về lòng Thiên Chúa yêu thương, về sự hiến thân của Đấng là Thiên Chúa làm người, lòng tha thứ Thiên Chúa dành cho con người…
Khi họ đã có thể hiểu một cách tương đối, tôi nói với họ về Điều răn của Chúa, về tám Mối phúc của Chúa Giêsu, về các điều răn Hội Thánh…
Sau khi đã bắt đầu hình thành một đời sống Kitô hữu như thế, tôi đưa họ vào các chân lý đức tin, qua việc giúp họ hiểu giáo lý, trong đó có niềm tin vào Chúa Phục sinh. Đó là những chân lý rất khó, sẽ càng khó đón nhận hơn, nếu không được chuẩn bị, ít là những điều cần thiết một cách cơ bản.
Tôi tin rằng, Thiên Chúa đã trợ lực cho tôi. Chính Người dùng miệng lưỡi của mình mà nói với dân của Người. và cũng chính ơn của Chúa đã đồng hành với anh chị em, để những gì xuất phát từ môi miệng tôi, anh chị em có thể hiểu được và tin.
Nói như thế để thấy rằng, chúng ta không phải là những kẻ dễ tin. Nhất là thời đại khoa học phát triển đến mức chóng mặt như hiện nay, người ta vịn vào khoa học để giải đáp mọi vấn đề, thì những chân lý đức tin, như vấn đề thân xác sống lại chẳng hạn, càng không dễ dàng chấp nhận.
Anh chị em dự tòng đi học giáo lý, chắc Thiên Chúa phải ban ơn cho họ, để họ tin. Vì một người đã lớn khôn, đã có sự hiểu biết, rất bình thường về năng lực lý trí, bây giờ được nói tới những chân lý đức tin xem ra khá xa xôi, vậy mà họ có thể chấp nhận. Ít là có thiện chí để chấp nhận. Tôi nghĩ, Thiên Chúa phải chuẩn bị cho họ nhiều lắm.
Hôm nay suy niệm Tin Mừng về việc Chúa Phục sinh hiện ra với tông đồ Tôma, tôi thấy cả tôi cũng được Chúa chuẩn bị bằng ơn thánh của người.
Cũng giống như sự chuẩn bị cho các dự tòng và tân tòng, hoặc cũng giống như bản thân thánh Tôma, Chúa đã chuẩn bị cho thánh nhân đón nhận đức tin cách hoàn hảo khi đáp ứng yêu cầu “được xỏ vào lổ đinh, được thọc tay vào cạnh sườn” của Chúa. Để qua cuộc khám phá diện đối diện với Chúa Phục sinh của thánh Tôma, Chúa Phục sinh ban cho tôi một bằng chứng xác thực. Đó là sự chuẩn bị đức tin, Người dành cho tôi, để bây giờ tôi tin Người .
Có người trách thánh Tôma là cứng lòng tin. nhưng riêng tôi, tôi thầm cám ơn thánh Tôma. Cám ơn, vì nơi thánh nhân, tôi thấy chính mình. Bởi không dễ dàng gì, một sớm một chiều tôi tin Chúa sống lại. Tôi cám ơn thánh Tôma do hai lý do:
Lý do thứ nhất: Để có được đức tin, chắc chắn tôi cũng sẽ đòi bằng chứng. Chúa Giêsu đã trả lời bằng một bằng chứng mạnh mẽ nhất: cho xem chính thân xác của Người. “Tôma, hãy xỏ ngón tay con vào lổ đinh trên tay Thầy, hãy thọc bàn tay vào cạnh sườn Thầy”.
Ngày xưa, với một bằng chứng xác thực, Chúa bảo đảm cho đức tin của thánh Tôma, ngày nay đó cũng là một bảo đảm cho chính đức tin của tôi. Vì Chúa của tôi đã sống lại thật. Người trả lời cho tôi không phải bằng lời, nhưng bằng thân xác Phục Sinh đích thật của Người.
Lý do thứ hai: Nhờ sự đòi hỏi bằng chứng xác thực của thánh Tôma, tôi biết mình có phúc. Vì Chúa Phục Sinh đã nói: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Từ lời của Chúa Phục sinh, chúng ta vui mừng mà chúc phúc cho nhau: Phúc cho ông, phúc cho bà, phúc cho anh chị em, phúc cho các bạn là những người trẻ, phúc cho các bé thiếu nhi, phúc cho tôi, phúc cho tất cả chúng ta…, vì chúng ta không hề thấy nhưng lòng tin tưởng thì rất lớn lao.
Hơn bất cứ thời gian nào, trong những ngày này, chúng ta không thể quên các anh chị em tân tòng. Phúc thật, phúc lớn cho những anh chị em tân tòng, những người vừa mới đón nhận đức tin, đặt biệt những anh chị em mới đón nhận đức tin trong dịp lễ Phục Sinh. Họ cũng là những người giống như bạn, như tôi: đã không thấy mà tin.
Các bạn tân, dự tòng thân mến, Giáo Hội đã trao cho chúng tôi kho tàng đức tin. Giáo Hội cũng đã hoặc sẽ trao cho các bạn đức tin ấy.
Nếu chúng tôi đã lãnh nhận kho tàng đức tin, đã sống và gìn giữ kho tàng quý giá đó suốt cả cuộc đời chúng tôi. Nếu chúng tôi đã tuyên xưng đức tin và hãnh diện nhận mình là người Công giáo, chúng tôi cũng mong muốn, và cả ước ao tha thiết nữa, các bạn sẽ bền tâm giữ đạo đến giây phút cuối cuộc đời. Vì đức tin mà các bạn vừa có được là do sự chọn lựa của chính các bạn. Chính các bạn quyết định lãnh nhận bí tích rửa tội để vào đạo, chứ không do bất kỳ ai thúc ép.
Tất cả chúng ta, dù là người đã đi đạo từ lâu, hay chỉ mới đi đạo, thậm chí mới được rửa tội đúng một tuần, hay đang là dự tòng, chúng ta mang trong lòng mình một niềm xác tín lớn lao về Chúa Kitô Phục sinh. Bởi đó, chúng ta cũng cưu mang niềm hy vọng phục sinh như Chúa của mình.
Đức tin vào ơn Phục sinh là niềm xác tín của cả Hội Thánh nói chung. Nhưng rất đặc biệt, vì đức tin ấy cũng đã trở thành niềm xác tín của riêng từng người là con cái của Hội Thánh.
Chúng ta xác tín mạnh mẽ rằng, tin vào ơn Phục sinh là một đức tin đã được chính Chúa chuẩn bị để ta có thể cưu mang và sống suốt cuộc đời của mình. Đức tin vào ơn Phục sinh cũng chính là lời chúc phúc trọng đại dành cho từng người, cho bạn cho tôi.
Bạn ạ, tin bao giờ cũng đòi một bước nhảy vọt, ra ngoài cái có thể thấy hay cảm nhận. Chúng ta không được phúc thấy Chúa theo kiểu của thánh Tôma. Nhưng chúng ta, rõ ràng nhất là các tân, dự tòng, lại được thấy Chúa qua đức tin của thánh Tôma, của Hội Thánh và của biết bao chứng nhân trong Hội Thánh.
Thông thường, ta vẫn nghĩ thánh Tôma thật là diễm phúc vì được Chúa trả lời cho sự chất vấn về đức tin của thánh nhân. Thánh Tôma cũng như nhiều môn đệ khác, thật diễm phúc vì nhìn thấy Chúa Giêsu Phục sinh cách nhãn tiền.
Nhưng nói cho cùng, tin mà vẫn không thấy, chúng ta vẫn là người có phúc, phúc lớn. Tin mà vẫn không thấy, đó là đức tin mạnh, mạnh vô cùng. Tin mà vẫn không đòi bằng chứng, chỉ cần lời giáo huấn của Hội Thánh, chúng ta đáng hãnh diện về mình, một niềm kiêu hãnh thuộc về một giá trị tuyệt đối.
.
Lm. Trần Việt Hùng
Chiều ngày thứ nhất trong tuần,
Cửa nhà đóng kín, quây quần bên nhau.
Tông đồ lo lắng buồn đau,
Tinh thần hoảng sợ, núp sau người đời.
Giê-su hiện đến diệu vời,
Bình an chúc phúc, cho người mến tin.
Cạnh sườn đâm thấu trái tim,
Chân tay lủng lỗ, ngắm nhìn Thầy đây.
Vui mừng xem thấy dấu nầy,
Thổi hơi phán bảo, ban đầy ơn thiêng.
Thánh Thần ân sủng thiêng liêng,
Cầm quyền tháo cởi, ơn riêng chúc lành.
Tô-ma vắng mặt khuyết danh,
Mong chờ Chúa đến, thi hành thanh minh.
Không tin Chúa đã phục sinh,
Đòi tìm dấu lạ, chứng minh rõ ràng.
Tám ngày tụ họp ngỡ ngàng,
Chính Thầy đứng giữa, bàng hoàng xác thân.
Tô-ma xem thấy thân trần,
Dục lòng tin kính, tinh thần lạc an.
Chúa Phục sinh là một sự kiện vượt ra ngoài trí hiểu của con người. Phần linh thiêng thì vượt giới hạn của khoa học thực nghiệm. Khi nghe Chúa sống lại, người ta không khỏi bỡ ngỡ. Có người cho đó là điều hoàn toàn vô lý. Vô lý thật, đối với suy tưởng của con người vô thần. Thoạt đầu các tông đồ của Chúa cũng đã có những người nghi ngờ và hoang mang.
Chúa sống lại đã hiện ra nhiều lần với nhiều nhóm người khác nhau. Chúa đã hiện ra để củng cố niềm tin cho các ông. Cho dù các tông đồ đã được báo trước, được chỉ dậy cặn kẽ, được chứng kiến nhiều phép lạ Chúa đã làm, nhưng các tông đồ không thể hiểu. Các ông có niềm tin nơi Chúa, nhưng các ông cũng cần có những bằng chứng cụ thể. Tông đồ Tôma nhất định không tin nếu ông không được xỏ ngón tay vào lỗ đinh nơi bàn tay thương tích của Thầy.
Nghe tin Chúa sống lại, nhiều tông đồ nghĩ đó là truyện hoang tưởng. Có tông đồ đã chán nản bỏ đoàn trở về quê nhà lo sinh sống. Có ông ở lại đóng kín cửa trong sự sợ hãi trốn lánh. Sự kiện Chúa sống lại không dễ thuyết phục niềm tin của các tông đồ. Từng bước Chúa đã xuất hiện để qui tụ, gặp gỡ và chia xẻ với họ. Niềm tin lớn dần. Chính nhờ sự nghi ngờ và hoang mang đã dẫn đưa các tông đồ tới niềm xác tín vào sự sống lại của Chúa. Sau cùng các ngài đã trở thành những chứng nhân hùng hồn nhất. Hầu hết các ngài đã lấy chính sự sống mình để chứng minh niềm tin vào Chúa Kitô sống lại.
Chúng ta lãnh nhận đức tin qua Giáo Hội. Đức tin là một ân huệ và cũng là một hạt giống được gieo vào tâm hồn. Hạt giống đức tin cần được biến đổi, nẩy mầm và phát triển để sinh hoa kết quả trong cuộc sống. Có người nói rằng đi đạo tại tâm, đạo tại trong lòng. Không cần phải tham dự thánh lễ hay sinh hoạt đạo giáo gì cả. Thánh Giacôbê nói rằng: Đức tin không việc làm là đức tin chết. Thánh Tôma đã nghi ngờ Chúa đã sống lại và đòi Chúa cho dấu chỉ. Chúa đã cho ông thấy bàn tay và cạnh sườn bị đâm thâu. Ông thấy và ông đã tin. Tiếp theo Chúa Giêsu phán rằng phúc cho ai không thấy mà tin.
Chúng ta thừa huởng kho tàng niềm tin qua Giáo Hội và qua các chứng nhân anh hùng tử đạo. Các ngài đã đổ máu đào chứng minh vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta đặt niềm tin tưởng nơi Chúa, chúng ta sẽ không bị thất vọng. Vì Chúa là sự sống và là sự sống lại. Hy vọng cùng đích của cuộc đời chúng ta là được kết hợp với Chúa trong sự sống đời đời.
.
HÃY ĐỤNG CHẠM TỚI LÒNG CHÚA THƯƠNG XÓT
Lm. Gioan nguyễn Văn Ty
Môn đệ Tô-ma đòi được tận tay chạm vào các thương tích của Thập Giá nơi thân thể Chúa Phục Sinh: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”. Tại sao lại thế nhỉ? đòi hỏi của ông có thật sự cần thiết không? Gặp được Thầy Giê-su sống động, đi lại, nói năng và ăn uống như người thường, chẳng lẽ không đủ sao? tại sao ông lại đòi hỏi phải được “cho xem tay và cạnh sườn” Người? Hơn nữa, việc mắt thấy tay chạm có ý nghĩa đặc biệt gì đối với nhóm môn đệ nhút nhát, nhất là đối với ông Tô-ma?
Dưới cặp mắt các môn để, việc Thầy Chí Thánh bị đóng đinh vào thập giá và con tim Người bị đâm thủng chắc chắn không chỉ mang ý nghĩa thể lý về cái chết đau đớn của một thân xác treo trên giá thập tự. Đối với các ông – và đó cũng là nội dung giáo huấn trường kỳ của Đức Giê-su trước đây, dấu đinh trên tay chân và vết thương nơi cạnh sườn mà họ nhìn thấy nói lên sự tự hiến yêu thương của Chiên Vượt Qua, diễn tả tình yêu bao la của Thiên Chúa cứu độ. Khi cho các ông xem tay và cạnh sườn, Đấng Phục Sinh hẳn muốn nói cho các môn đệ thân yêu một điều gì vượt xa lời khảng định rằng: Người đã sống lại về mặt thể lý. Điều Người muốn khảng định qua các dấu tích đó là: tình yêu thương xót và cứu độ của Thiên Chúa đã trở thành bất diệt và toàn thắng! Các môn đệ do đó cần một cảm nhận cụ thể để tin vào điều này cách vững bền. Các ông là những nhân chứng được chứng kiến tình yêu đó đã đạt tới đỉnh điểm, thì cũng cần phải xem và chạm vào các dấu đinh ở tay chân, và vết đòng trên ngực Người để có bằng chứng không thể chối cãi rằng lòng xót thương tha thứ đó vẫn còn sống, vì nó là vô địch.
Môn đệ Tô-ma trong thâm sâu muốn điễn đạt nhu cầu đó khi phát ngôn câu nói mà nhiều khi bị coi là thách thức: “Nếu tôi không….” Phần mình Đức Giê-su phục sinh đã coi yêu cầu đó là hoàn toàn chính đáng, và Người không ngần ngại đáp ứng: “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy!” Quả vậy, Tô-ma và tất cả các môn đệ khác đều cần tới cái cảm nghiệm cụ thể này, nhất là sau tất cả các biến cố xáo trộn mà các ông vừa trải qua; ông Tô-ma đã thấy, đã chạm vào các dấu tích…, và ông đã tin. Ông không chỉ tin Chúa đã sống lại, mà đúng hơn: tin vào sự toàn thắng của tình yêu cứu độ.
Đối với Ki-tô hữu chúng ta thuộc các thế hệ sau này thì sao? Đức Giê-su đã không hề tuyên bố trải nghiệm đó là không còn cần thiết! Ngược lại là đàng khác! Tuy nhiên Người khảng định: trải nghiệm này phải được thể hiện bằng lòng tin, thay vì đụng chạm tới bằng giác quan thể lý, “Vì đã thấy Thầy nên anh đã tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!”
Bí tích Thánh Thể mà Người đã thiết lập chính là để các tín hữu trải qua các thế hệ chạm tới được các dấu đinh trên tay chân và vết thương cạnh sườn Chúa Phục Sinh. Cử hành Thánh Thể vì thế trở nên tâm điểm của đời sống Ki-tô hữu, chính vì nơi đây – trong niềm tin – các Ki-tô hữu từng người một, cảm nghiệm cách rất riêng tư và sống động lòng thương xót vĩnh cửu của Thiên Chúa đang được lặp lại cho mình. Trong cử hành Thánh Thể, linh mục và tín hữu cùng được mời gọi “Đặt ngón tay con vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy, đưa tay ra và đặt vào cạnh sườn Thầy”; đúng là họ, hơn bất cứ ai khác, cần đụng chạn tới biểu hiện của lòng thương xót cứu độ, trong tất cả sức mạnh và hữu hiệu của nó. Bất luận ai là Ki-tô hữu đều phải coi đây là công việc quan trọng hàng đầu họ cần làm! Họ sẽ có cùng thái độ của Phê-rô và Gio-an, khi đứng trước người bất toại trong hành lan đền thờ: “Anh hãy nhìn chúng tôi đây… Vàng bạc thì tôi không có; nhưng cái tôi có tôi cho anh đây…” (Cv 3:6) Mọi Ki-tô hữu, bao gồm cả tu sĩ, linh mục lẫn giáo dân, cách riêng các tân tòng, đều cần ý thức rằng: họ không nhất thiết phải là người giầu có nhất về mặt vật chất tiền của, cũng không cần là những người phong phú nhất về diện tinh thần hay thiêng liêng, nhưng gia sản quí giá nhất họ sở hữu, đặc ân duy chỉ một mình họ có, đồng thời cũng là điều duy nhất họ có thể cống hiến cho nhân loại đang quằn quại trong nỗi thống khổ cùng cực, đó là được biết, được chạm tới, và được cử hành cách sinh động lòng thương xót từ ái vô biên và bất diệt của Thiên Chúa, đã được thực hiện qua Thập Giá và Phục Sinh của Đức Ki-tô Giê-su.
Riêng cá nhân tôi, cho dầu là một Linh Mục, tôi có thực sự xác tín điều này không nhất là mỗi khi cử hành Thánh Lễ?
Lạy Chúa Phục Sinh, xin cho phép con được dùng đức tin để xỏ ngón tay con vào các lỗ đinh, đặt bàn tay con vào cạnh sườn Người, để con có được cảm nghiệm sâu sắc rằng: tình yêu cứu độ Chúa dành cho con quả là bất diệt. Xin cho việc cử hành Thánh Lễ hàng ngày mang lại cho chính con trước hết sự bình an của một người cảm nhận mình đượcThiên Chúa yêu thương, và tin chắc rằng: tình yêu đó sẽ bất diệt và bền vững cho đến muôn đời, bất chấp những yếu hèn, sa ngã của kiếp người ô trọc. Xin cho con được cử hành mầu nhiệm Phục Sinh ngay từ bây giờ, trong chính đời sống hàng ngày của con. A-men.
.
SUY NIỆM CHÚA NHẬT II PHỤC SINH
Lm. Anthony Trung Thành
Trong suốt tuần Bát Nhật Phục Sinh, chúng ta đã nghe Tin Mừng tường thuật lại nhiều lần Đức Giêsu Phục sinh hiện ra. Hôm nay, ngày cuối cùng của tuần Bát Nhật, chúng ta nghe Tin mừng Thánh Gioan tường thuật lại hai lần Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các môn đệ: Lần thứ nhất, vào buổi chiều ngày Phục sinh; lần thứ hai, tám ngày sau đó. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu các chi tiết liên quan đến hai lần hiện ra này.
1. Lần Hiện Ra Thứ Nhất
Trong lần hiện ra lần thứ nhất, chúng ta thấy có các chi tiết sau đây:
Chi tiết thứ nhất: Đức Giêsu Phục sinh vào nhà khi “các cửa còn đóng kín.” Điều này cho chúng ta biết, Đức Giêsu Phục sinh không còn phụ thuộc vào thời gian và không gian. Vì sự Phục sinh của Ngài không phải là một cuộc trở lại đời sống trần thế. Thân xác Phục sinh của Ngài cũng chính là thân xác đã chịu đóng đinh và mang vết thương của cuộc khổ nạn, nhưng từ lúc Phục sinh, thân xác này được tham dự vào đời sống thần linh với những đặc điểm của một thân xác vinh hiển: thân xác này không bị định vị trong không gian và thời gian, nhưng có thể tùy ý xuất hiện ở đâu và lúc nào Ngài muốn. Vì thế, Ðức Giêsu Kitô Phục sinh tuyệt đối tự do khi hiện ra với các môn đệ Người, theo cách thức và nơi chốn như Người muốn, dưới nhiều hình dạng khác nhau. (x. GLHTCG số 645) .
Chi tiết thứ hai: Đức Giêsu “đứng giữa các ông” (x. Ga 20,19). Đây là thái độ diễn tả sự gần gũi, thân mật và yêu thương giữa thầy và trò. Điều này cho chúng ta thấy, Ngài không còn nhớ tới tội lỗi của các Tông đồ: Tội chối thầy của Phêrô, tội bỏ trốn của các Tông đồ khác, nhưng đã tha thứ tất cả cho các ông. Thái độ này diễn tả một tình yêu tha thứ.
Chi tiết thứ ba: Đức Giêsu trao ban bình an. Chúng ta biết, sau khi Đức Giêsu bước vào cuộc khổ nạn, chịu đóng đinh, chịu mai táng trong mồ, tâm trạng của các Tông đồ hết sức lo lắng, sợ sệt, thiếu sự bình an. Bằng chứng là các ông đã bỏ trốn, vào phòng đóng kín cửa lại. Hiểu rõ điều đó, nên sau khi Phục sinh, điều đầu tiên Đức Giêsu muốn mang đến cho các Tông đồ là sự bình an. Ngài nói: “Bình an cho anh em” (x. Ga 20,19). Đây là một hành động nói lên sự quan tâm đặc biệt của Đức Giêsu phục sinh đối với các Tông đồ.
Chi tiết thứ tư: Đức Giêsu cho các Tông đồ xem tay và cạnh sườn Người (x. Ga 20,20). Đây là một bằng chứng giúp các Tông đồ nhận ra Thầy của mình đã sống lại thật, chính Thầy chứ không phải ai khác. Cho nên, sau khi xem tay và cạnh sườn của Thầy, Tin mừng cho biết “các Tông đồ rất đỗi vui mừng” (x. Ga 20,20). Thật vậy, không vui mừng sao được khi người thầy đã chết nay sống lại. Giờ đây nơi các ông không còn sự sợ hãi, lo lắng, buồn phiền nữa, mà chỉ còn niềm tin yêu và hy vọng. Các ông sẽ vững tin để thực hiện sứ mạng mà Thầy trao phó.
Chi tiết thứ năm: Đức Giêsu trao ban sứ mạng. Ngài trao ban cho các ông quyền tha và cầm buộc. Đây là sứ mạng cao cả, để chu toàn sứ mạng này cần phải có sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần. Vì thế, trước khi trao ban sứ mạng cao cả ấy, Đức Giêsu đã trao ban Thánh Thần cho các ông. Tin mừng tường thuật: “Người thổi hơi và phán bảo các ông: ‘Các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội ai, thì tội người ấy được tha. Các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại” (Ga 20,22-23).
Các chi tiết liên quan đến lần hiện ra thứ nhất trên đây hết sức quan trọng vì ảnh hưởng rất lớn đến niềm tin và sứ mạng của các Tông đồ sau này. Nhưng tiếc thay, lần hiện ra này lại không có ông Tôma. Mặc dầu các Tông đồ khác đã báo cho ông biết “chúng tôi đã thấy Chúa” nhưng ông vẫn không tin. Ông còn tuyên bố rằng: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin”(Ga 20,25). Vì lời tuyên bố này, nên ông được mệnh danh là kẻ “cứng lòng tin.” Nhưng nếu như trong trường hợp của Tôma có lẽ chúng ta vẫn chưa tin những gì các Tông đồ khác nói. Vì, tôi cũng là Tông đồ, nhưng tại sao Đức Giêsu Phục sinh hiện ra với các Tông đồ khác mà lại không hiện ra với tôi? Hơn nữa, thiết tưởng việc Tôma vắng mặt và chưa tin vào sự Phục sinh của Đức Giêsu cũng không ngoài sự quan phòng của Thiên Chúa. Vì nhờ sự “cứng tin” của ông Tôma mà chúng ta có lần hiện ra thứ hai của Đức Giêsu phục sinh.
2. Lần Hiện Ra Thứ Hai
Cách thức mà Đức Giêsu Phục sinh hiện ra lần này cũng tương tự như lần thứ nhất. Các môn đệ vẫn ở trong phòng, cửa vẫn đóng kín. Đức Giêsu đến và trao ban bình an. Nhưng lần này Đức Giêsu để ý đặc biệt tới ông Tôma. Ngài nói với ông Tôma rằng: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27). Không còn nghi ngờ gì nữa, Tôma vui mừng và tuyên xưng niềm tin của mình vào Đức Giêsu phục sinh rằng: “Lạy Chúa con, lạy Thiên Chúa của con!”(Ga 20,28). Sau đó, Đức Giêsu nói với Tôma: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin”(Ga 20, 29). Và Ngài chúc phúc cho niềm tin của các Kitô hữu qua mọi thế hệ rằng: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20, 29).
Như vậy, nhờ hai lần hiện ra của Đức Giêsu phục sinh mà Tin mừng hôm nay tường thuật lại, niềm tin của các Tông đồ được củng cố lại một cách vững chức hơn. Không những thế, các ông còn được Đức Giêsu phục sinh trao ban bình an, trao ban Thánh thần và ban quyền tha tội. Ngoài ra, Đức Giêsu còn chúc phúc cho mọi người tin vào Ngài qua mọi thời đại. Điều đó nói lên tình thương của Ngài đối với các Tông đồ và với mọi người chúng ta hôm nay.
3. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay?
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta luôn tin tưởng vào Đức Giêsu đã Phục sinh. Chúng ta vui niềm vui của các Tông đồ “vì đã trông thấy Chúa.” Chúng ta tin tưởng vào tình thương tha thứ của Ngài. Từ đó, chúng ta hãy sống tinh thần tạ ơn như thánh vịnh 117 trong bài đáp ca mời gọi: “Hãy cảm tạ Chúa, vì Chúa hảo tâm, vì đức từ bi của Người muôn thuở”(Tv 117,1). Đồng thời, chúng ta hãy bắt chước các Kitô hữu đầu tiên biết siêng năng cầu nguyện, nhất là sống tinh thần liên đới, chia sẻ với nhau trong cuộc sống: “Tất cả mọi kẻ tin, đều sống hoà hợp với nhau và để mọi sự làm của chung” (Cv 2,42-47). Ngoài ra, chúng ta hãy sống niềm hy vọng được sống lại như tâm tình của Thánh Phêrô trong bài đọc thứ II: “Nhờ việc Ðức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại, Người đã tái sinh chúng ta để chúng ta hy vọng được sống”(1Pr 1,3).
Lạy Chúa, xin cho chúng con biết luôn suy niệm Tin mừng tường thuật về những lần hiện ra của Đức Giêsu Phục sinh để chúng con thêm xác tín vào Sự Sống Lại, hầu chúng con sống niềm tin đó và rao truyền cho những người xung quanh. Amen.
.
CÙNG CHÚA PHỤC SINH MANG LẠI NIỀM TIN YÊU CHO THA NHÂN
Lm. Đan Vinh
I. HỌC LỜI CHÚA
- TIN MỪNG: Ga 20,19-31
(19) Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em !” (20) Nói xong, Người cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. (21) Người lại nói với các ông: “Bình an cho anh em ! Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. (22) Nói xong, Người thổi hơi vào các ông và bảo: Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. (23) Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”. (24) Một người trong nhóm Mười Hai, tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô, không ở với các ông khi Đức Giê-su đến. (25) Các môn đệ khác nói với ông: “Chúng tôi đã được thấy Chúa !” Ông Tô-ma đáp: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin. (26) Tám ngày sau, các Môn đệ Đức Giê-su lại có mặt trong nhà, có cả ông Tô-ma ở đó với các ông. Các cửa đều đóng kín. Đức Giê-su đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (27) Rồi Người bảo ông Tô-ma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”. (28) Ông Tô-ma thưa Người: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !” (29) Đức Giê-su bảo: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thầy mà tin !” (30) Đức Giê-su đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ, nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép trong sách này. (31) Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sống nhờ danh Người.
- Ý CHÍNH:
Bài Tin Mừng thuật lại hai lần Chúa Giê-su Phục Sinh hiện ra với các môn đệ cách nhau một tuần lễ, để chứng minh Người đã từ cõi chết trỗi dậy:
– LẦN THỨ NHẤT Chúa Giê-su đã hiện ra với các môn đệ mà thiếu Tô-ma. Người đã cho các ông xem các vết thương ở bàn tay và cạnh sườn Người rồi thổi hơi ban Thánh Thần cho các ông (23).
– LẦN THỨ HAI sau tám ngày, Chúa Phục Sinh lại hiện ra thỏa mãn đòi hỏi của Tô-ma và khi gặp Chúa Tô-ma đã tuyên xưng đức tin. Chúa Giê-su đã chúc phúc cho những ai không thấy mà tin ! (29)
- CHÚ THÍCH:
– C 19-20: + Ngày Thứ Nhất trong tuần: Ngày nay, Giáo Hội đã chọn Ngày Thứ Nhất trong tuần để mừng mầu nhiệm Chúa Phục Sinh và gọi là Chúa Nhật hay Ngày Của Chúa. Đây là ngày lễ nghỉ, thay thế Thứ Bảy (Sa-bát) của Do Thái Giáo là ngày hưu lễ, để noi gương Thiên Chúa đã làm việc sáng tạo trời đất muôn vật trong sáu ngày, và ngày thứ Bảy thì Ngài nghỉ ngơi (x. St 1,1-2,2). + Đức Giê-su đến: Chúa Phục Sinh hiện đến Nhà Tiệc Ly khi cửa nhà vẫn đóng kín, cho thấy thân xác của Người sau phục sinh mang đặc tính thiêng liêng siêu việt, có khả năng hiện diện ở khắp nơi. + Bình an cho anh em ! Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa: Đức Ki-tô Phục Sinh đem lại sự bình an (x. Ga 20,19.21) và niềm vui (x Ga 20,20) cho các Môn đệ (x Ga 14,27). + Người cho các ông xem tay và cạnh sườn: Cho thấy Chúa Phục Sinh chính là Đấng đã bị đóng đinh thập giá (x. Ga 19,18), và bị lưỡi đòng đâm thâu (x. Ga 19,34). Qua đó ta thấy sự liên quan mật thiết giữa hai mầu nhiệm Tử Nạn và Phục Sinh.
– C 21-23: + Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em: Tông đồ nghĩa là “được sai đi”. Sứ mạng này từ Chúa Cha truyền cho Đức Giê-su, và giờ đây Người lại truyền cho các Môn đệ và các tín hữu sau này. + Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”: Theo Kinh Thánh, hơi thở chính là sự sống. Như xưa, Thiên Chúa đã thổi sinh khí vào A-đam và ban sự sống cho ông (x. St 2,7), thì nay, Đức Giê-su Phục Sinh cũng thổi Thần Khí cho các Môn đệ. Rồi đến lượt các Môn đệ lại sẽ thông truyền sự sống thiêng liêng ấy cho các tín hữu. + “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha. Anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”: Đức Giê-su được Gio-an Tẩy Giả giới thiệu là Con Chiên của Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian (x Ga 1,29). Khi làm phép lạ chữa lành một người bại liệt, Đức Giê-su cho thấy Người có quyền tha tội (x. Mt 9,6). Trong Tin Mừng hôm nay, Người còn thiết lập bí tích Giải Tội, ban quyền tha tội cho các Tông đồ bằng việc thông ban Thánh Thần cho các ông. Sau này các Giám mục kế vị các Tông đồ sẽ tiếp tục thông chia quyền tha tội cho các linh mục là những cộng tác viên của mình.
– C 24-25: + Một người trong Nhóm Mười Hai tên là Tô-ma, cũng gọi là Đi-đy-mô: Tô-ma là một trong Nhóm Mười Hai Tông đồ (x. Mt 10,3). Biệt danh là “Sinh Đôi”. Tính tình bộc trực và can đảm (x. Ga 11,16). Ông thường nêu ra thắc mắc để được Thầy giải thích rõ hơn (x.Ga 14,5). + Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người…: Tô-ma đòi được “mắt thấy tay sờ”, nghĩa là đòi một thứ đức tin khả giác giống như một nhà khoa học thực nghiệm (x. Ga 20,25). + “… thì tôi chẳng có tin”: Nhiều môn đệ khác cũng cứng lòng tin như thế. Tin Mừng Nhất lãm cũng nói tới sự cứng tin của các môn đệ: Matthêu viết: “Nhưng có mấy ông vẫn hoài nghi” (Mt 28,17); Mác-cô thuật lại: “Người khiển trách các ông không tin và cứng lòng, bởi lẽ các ông không chịu tin những kẻ đã được thấy Người sau khi Người trỗi dậy” (Mc 16,14); Lu-ca ghi lại lời Chúa trách các môn đệ: “Sao anh em lại hoảng hốt ? Sao còn ngờ vực trong lòng ?” (Lc 24,38).
– C 26-27: + “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay thầy”. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy: Đức Giê-su đã thoả mãn những đòi hỏi của Tô-ma. + Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin: Đức Giê-su tuy trách tội cứng lòng của Tô-ma, nhưng Người cũng thông cảm và chỉ kêu gọi ông hãy tin vào mầu nhiệm Phục sinh của Người.
– C 28-31: + Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con !”: Tuy Tô-ma là người tin Chúa sống lại sau cùng, nhưng ông lại tuyên xưng một đức tin đầy đủ nhất: Đức Giê-su vừa là Chúa (Đấng Cứu Thế), vừa là Thiên Chúa (Con Thiên Chúa). + Phúc thay những người không thấy mà tin”: Từ đây, đức tin vào mầu nhiệm Phục Sinh của các tín hữu sẽ không dựa trên kinh nghiệm khả giác về các lần Chúa Phục Sinh hiện ra nữa, nhưng căn cứ trên lời chứng của các Tông đồ (x. Ga 19,35). Về sau, các ông còn làm chứng bằng việc sẵn sàng chịu chết vì niềm tin vào mầu nhiệm ấy.
- CÂU HỎI:
1) Tại sao Hội Thánh chọn ngày Thứ Nhất trong tuần làm ngày Chúa Nhật thay vì Thứ Bảy (Sa-bát) như đạo Do thái ? 2) Việc Đức Giê-su Phục Sinh đến giữa các môn đệ tại nhà Tiệc ly khi cửa đóng kín cho thấy thân xác sống lại của Chúa có đặc tính gì ? 3) Qua lời chào, Chúa Phục Sinh đã ban cho các môn đệ điều gì ? 4) Khi cho môn đệ xem tay và cạnh sườn, Chúa Phục Sinh muốn nói gì với các ông ? 5) Sứ mệnh tông đồ thừa sai của Hội Thánh phát xuất từ đâu và vào lúc nào ? 6) Đức Giê-su thổi hơi ban Thần Khí cho các môn đệ nhằm mục đích gì ? 7) Bằng chứng nào cho thấy Đức Giê-su có quyền tha tội và Người trao quyền ấy cho Hội Thánh vào lúc nào ? 8) Tin Mừng cho biết gì về Tông đồ Tô-ma ? 9) Các Tông đồ có phải là những người dễ tin vào mầu nhiệm Phục Sinh không ? 10) Khi hiện ra lần thứ hai, Chúa Giê-su đã làm gì để thỏa mãn đòi hỏi của ông Tô-ma ? 11) Cuối cùng Tô-ma đã đạt tới đức tin trọn vẹn qua lời tuyên xưng như thế nào ? 12) Ngày nay các tín hữu cần dựa vào bằng chứng nào để tin vào mầu nhiệm Phục Sinh? 13) Sự cứng lòng của Tô-ma và của các Tông đồ có giá trị ra sao đối với đức tin của các tín hữu hôm nay ?
SỐNG LỜI CHÚA:
- LỜI CHÚA: “Những điều đã được chép ở đây là để anh em tin rằng Đức Giê-su là Đức Ki-tô Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Người” (Ga 20,31).
- CÂU CHUYỆN:
1) THỰC THI LÒNG THƯƠNG XÓT LÀ «QUÊN MUÔN OÁN VÀ GHI NHỚ MUÔN ƠN»:
Tác giả Ron Lee đã viết một câu chuyện trong cuốn “Một Thiên Chúa Tha thứ trong một thế giới không tha thứ” như sau: Có một vị linh mục là một người rất yêu mến Chúa, nhưng ông luôn bị ám ảnh bởi một tội mà ông đã phạm trong quá khứ. Ngài đã ăn năn sám hối nhưng vẫn không bình an tâm hồn. Ngày nọ, nghe nói có một phụ nữ trong giáo xứ thường được tiếp xúc và nói chuyện với Chúa trong giấc mơ. Vị linh mục không tin, muốn thử bà nên nói: « Lần sau nếu còn gặp Chúa thì bà hỏi Ngài xem, tôi đã phạm tội gì nhé? » Mấy ngày sau gặp lại bà, vị linh mục đã hỏi bà xem Chúa đã nói gì? Bà trả lời: « Chúa nói rằng: Ta chẳng còn nhớ gì nữa! »
Còn chúng ta hôm nay cần làm gì để noi gương Thiên Chúa giàu lòng từ bi thương xót.
2) LÀM CHỨNG CHO CHÚA BẰNG VIỆC SẴN SÀNG CHỊU CHẾT VÌ DANH CHÚA :
Tờ báo TIẾNG GỌI (L’Appelle) đã thuật lại một câu chuyện thật cảm động như sau: Một bà góa nghèo có một cậu con trai 16 tuổi đang học làm thủy thủ trên một tàu buôn chở hàng từ Pháp sang Nữu Ước (Hoa Kỳ). Trên tàu có 40 thủy thủ thì chỉ có cậu bé này là còn có đức tin vào Chúa.
Cậu bé được bà mẹ đạo đức khuyên dạy con rằng: “Chúa đặt con trên con tàu này là để cho con có dịp làm chứng cho Người”. Do đó, mỗi khi thấy đám thủy thủ trên tàu dùng thì giờ rảnh rỗi để uống rượu say xỉn hay chơi cờ bạc ăn tiền, hoặc mỗi khi con tàu cặp bến họ rủ nhau lên bờ tìm đến những tửu lầu để chơi bời sa đọa, thì cậu ta đều cố ngăn cản bằng cách này hay cách khác. Nhưng không những họ không chịu nghe cậu, mà nhiều khi còn chế diễu nhạo báng cậu: khi cậu nhắm mắt cầu nguyện tạ ơn Chúa trước khi ăn, thì họ bí mật đem đĩa đồ ăn của cậu giấu đi chỗ khác. Khi cậu quỳ gối đọc kinh, thì họ cố tình hát to những bài hát tục tĩu để chế nhạo. Có lần họ còn đổ cả xô nước dơ lên người cậu. Để đáp lại, cậu thiếu niên chỉ mỉm cười và âm thầm cầu xin Chúa cho họ.
Một lần kia khi đang làm việc trên boong tàu, thấy các bạn ngồi đánh bài, cậu liền đến giành lấy bộ bài đem dấu đi. Đám thủy thủ tức giận tóm lấy cậu và hè nhau quăng cậu xuống biển. Thấy cậu bơi lại gần con tàu thì họ lại dùng cây sào đẩy ra xa. Năm lần bảy lượt như vậy, cậu đã bị yếu sức dần. Khi sắp buông xuôi chìm xuống biển, cậu cố ngoi lên lần cuối và hét to rằng: “Các bạn ơi, hãy tin vào Chúa Giê-su thì các bạn sẽ được cứu độ… Xin hãy nhắn lại với mẹ tôi rằng: tôi đã được chịu chết vì danh Chúa Giê-su !” Nghe vậy, năm thủy thủ liền nhảy xuống biển đưa cậu lên boong tàu làm hô hấp nhân tạo. Một hồi sau cậu tỉnh dậy. Thấy mình còn sống, cậu đã cám ơn các bạn và lại tiếp tục kêu gọi họ đừng phạm tội nữa, nhưng hãy quay trở về với Chúa. Kết quả là sau đó toàn thể các thủy thủ trên tàu đều rất xúc động trước tấm gương can đảm trung kiên của cậu. Không ai bảo ai, họ đã quỳ gối xuống cầu nguyện và tuyên xưng đức tin, đồng thời ăn năn sám hối để xin ơn Chúa tha thứ tội lỗi cho mình.
- THẢO LUẬN:
Cậu bé trên đã bất chấp nguy hiểm, can đảm trung thành với Chúa để làm chứng về Chúa, nên sau nhiều gian nan thử thách, cậu đã thành công. Để chu toàn sứ mệnh được sai đi, bạn cần làm gì để giúp những người chưa tin nhận ra tội lỗi để hồi tâm sám hối và theo làm môn đệ Chúa Giê-su ?
- SUY NIỆM :
1) Chúa Phục Sinh luôn đồng hành với các môn đệ trong cuộc sống:
– Chúa Giê-su Phục Sinh không bị giới hạn trong không gian: Người có thể xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau. Chẳng hạn: Hiện ra với bà Ma-ri-a Mác-đa-la ở gần ngôi mộ đã an táng Người; Hiện ra với các môn đệ tại nhà Tiệc Ly khi cửa đóng kín vì sợ người Do thái; Hiện ra với hai môn đệ trên con đường dài 11 cây số từ Giê-ru-sa-lem về làng Em-mau; Hiện ra với các môn đệ trên bờ hồ Ga-li-lê, sau khi các ông nghe tin nhắn và đang chài lưới bắt cá; Về sau, Người còn hiện ra tại cửa thành Đa-mát xứ Sy-ri-a, khi Sau-lô mang quân đến bắt các tín hữu.
– Chúa Giê-su Phục Sinh cũng không bị giới hạn trong thời gian: Người xuất hiện với bà Ma-ri-a lúc sáng sớm khi trời còn tối. Người hiện ra bên bờ hồ với các môn đệ khi ánh bình minh đang ló rạng. Người hiện ra trong nhà Tiệc Ly vào buổi chiều ngày Thứ Nhất khi mới phục sinh. Người xuất hiện trên đường đi làng Em-mau lúc chiều tối. Đối với các tín hữu chúng ta, Chúa Phục Sinh luôn đồng hành trong mọi lúc mọi nơi. Người có thể xuất hiện qua những người chúng ta gặp hằng ngày ở giữa đời thường: Người có thể là người làm vườn khi hiện ra với Ma-ri-a Mác-đa-la; là một khách bộ hành đi cùng đường với hai môn đệ về lang Em-mau; là một người rành về nghề bắt cá khi chỉ dẫn thành công cho các môn đệ đã vất vả suốt đêm mà không bắt được con nào. Người xuất hiện để đánh tan sự nghi ngờ của ông Tô-ma.
2) Chúa Phục Sinh ban ơn bình an và niềm hy vọng cho các môn đệ:
– Mỗi lần hiện ra, Chúa Phục Sinh đều chào chúc bình an như sau: “Bình an cho anh em”. Rồi cũng như khi sáng tạo A-đam thời kỳ sáng thế, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi ban sự sống cho các môn đệ đang bị chết về đức tin mà nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Chính Thần Khí của Chúa Phục Sinh sẽ dần mạnh mẽ lên cho đến lễ Ngũ Tuần thì trở thành Cơn Gió Lốc ào vào nhà các môn đệ mở tung cửa ra, làm cháy lên lửa tin yêu trong lòng các ông và đẩy các ông đi rao giảng Tin Mừng Chúa Phục Sinh khắp thế gian để ban ơn cứu độ muôn người.
– Sau khi gặp Đức Kitô phục sinh, Ma-ri-a Mác-đa-la đang buồn bã trở nên vui tươi phấn khởi đi báo tin vui cho các anh em Chúa; Các môn đệ đang sợ hãi ẩn trốn trong nhà Tiệc Ly lấy lại được sự bình an; Hai môn đệ làng Em-mau đang u sầu tuyệt vọng trở nên nhiệt tình hăng say quay về Giê-ru-sa-lem báo tin cho các anh em; Các môn đệ đang mệt mỏi rã rời sau một đêm chài lưới vất vả vô ích, lập tức được hồi phục sức lực; Tô-ma đang tâm trạng nghi nan bối rối lấy lại niềm tin khi tuyên xưng đức tin: “Lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.
3) Chúa Phục Sinh đã sai các môn đệ đi loan báo Tin Mừng:
– Chúa Phục Sinh chính là Tin Mừng lớn lao mang lại ý nghĩa cho cuộc đời các môn đệ, nên họ không thể không loan báo Tin Mừng lớn lao đó: Ma-ri-a Mác-đa-la sau khi gặp Chúa Phục Sinh đã lập tức chạy về loan tin cho các môn đệ, thúc bách hai ông là Phê-rô và Gio-an chạy đua đến mộ để xem sự thể ra sao, và hai ông đã đạt tới đức tin; Hai môn đệ làng Em-mau lập tức trở về Giê-ru-sa-lem loan báo tin vui cho các anh em; Và sau này, Sau-lô sau khi bị ngã ngựa, đã gặp Chúa Phục Sinh và trở thành thánh Phao-lô, vị tông đồ dân ngoại hăng say loan báo Tin Mừng không mệt mỏi…
– Có thể nói: Tất cả những người đã gặp Chúa Phục Sinh đều trở thành sứ giả đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho mọi người, đều sẵn sàng lấy máu mình làm chứng cho lời mình rao giảng. Vì Đức Kitô phục sinh chính là một Tin Mừng không thể không chia sẻ cho mọi người.
4) Loan báo Tin Mừng chính là làm chứng về lòng Chúa thương xót:
– Trước khi về trời, Chúa Phục Sinh đã ra lệnh truyền cho các môn đệ: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần” (Mt 28,19-20). Loan báo Tin Mừng chính là làm chứng nhân của Chúa dưới ơn phù trợ của Thánh Thần như lời Chúa Phục Sinh: “Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ là chứng nhân của Thầy tại Giê-ru-sa-lem, trong khắp các miền Giu-đê, Sa-ma-ri và cho đến tận cùng trái đất” (Cv 1,8).
– Lệnh sai đi loan báo Tin Mừng làm chứng nhân của Chúa Phục Sinh không thể không thi hành, như thánh Phao-lô nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1 Cr 9,16). Hôm nay Chúa Phục Sinh cũng đang ở bên chúng ta trong mọi thời gian: từ khi mới chào đời đến tuổi thanh niên, từ tuổi trung niên đến giờ chết của mỗi người. Chúa Phục Sinh vẫn luôn ở bên chúng ta mọi nơi mọi lúc: Tại nhà thờ, nơi trường học, ở sở làm, nơi giải trí, trong gia đình, tại khu xóm. Người vẫn ở bên ta trong mọi cảnh ngộ vui buồn của cuộc đời của chúng ta… Chỉ cần dừng bước là chúng ta có thể gặp được Người đang hiện thân nơi người bên cạnh, nhất là nơi những người đau khổ bệnh tật nghèo đói vật chất cũng như tinh thần. Chúng ta sẽ đối xử thế nào với Người để có được sự bình an, có sự sống dồi dào trong tình thương của Chúa…
– Hôm nay là Chúa Nhật 2 Phục Sinh, kính nhớ lòng Chúa thương xót, Hội Thánh mời gọi chúng ta ý thức thân phận tội nhân của mình, đã được Chúa Giê-su chịu chết đền tội thay và đã sống lại để phục hồi sự sống cho chúng ta. Chúng ta cũng phải thể hiện lòng thương xót tha nhân noi gương Chúa Cha trên trời là Đấng giàu lòng từ bi đã thể hiện lòng thương xót đối với chúng ta. Chúa đang cần có thêm những người tốt để Ngài có thể tha thứ thế giới tội lỗi, giống như tổ phụ Áp-ra-ham xưa đã cầu xin Đức Chúa tha tội và không giáng phạt dân thành Sô-đô-ma, bằng việc tìm ra những người công chính trong thành. Cuối cùng do không tìm được đủ 10 người công chính, nên thành Sô-đô-ma đã bị lửa sinh diêm từ trời rơi xuống tiêu diệt. Hôm nay, cùng với thánh nữ Faus-ti-na, chúng ta cũng dâng lên Thiên Chúa những đau khổ chúng ta đang phải chịu, như của lễ đền tội, để xin Chúa tha tội loài người. Chúng ta cũng không quên dâng lên Chúa bản thân chúng ta, gia đình chúng ta và cả nhân loại để Ngài dủ lòng thương xót tha thứ và biến đổi thế giới chúng ta đang sống sớm nên “Trời Mới Đất Mới” đẹp lòng Ngài.
- NGUYỆN CẦU:
– LẠY CHÚA GIÊ-SU. Chúa đã sống đến cùng cuộc Vượt Qua của Chúa: Vượt qua đau khổ sự chết để được vào vinh quang sống lại. Xin cho chúng con biết sống mầu nhiệm Vượt Qua mỗi ngày: Vượt qua những sự ích kỷ, nhỏ nhen và những đam mê đang kéo ghì chúng con xuống bùn đen tội lỗi, vượt qua những nỗi sợ hãi khổ đau và nhục nhã. Vượt qua những nỗi khắc khoải đa nghi và những thành kiến không tốt về người khác.
– LẠY CHÚA. Chính sự phục sinh của Chúa động viên chúng con vui mừng và can đảm vượt qua những mất mát thua thiệt gặp phải trong cuộc sống. Ước gì chúng con biết noi gương Chúa : luôn gieo rắc sự bình an và niềm hy vọng khắp nơi, gieo rắc sự an ủi cho những người bệnh hoạn tật nguyền, gieo tình thương và cơm bánh cho những người cô đơn đói khát. Gieo lòng thương xót cho các người đang lạc xa Chúa để họ mau trở về với Chúa. Nhờ đó, thế giới này sẽ trở nên « Trời Mới Đất Mới » đầy tình thương, bình an và hạnh phúc theo thánh ý Chúa.
X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.
.
PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN-
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Người ta hay nói về niềm tin là một phần nhiều chắc chắn nào đó nơi khả năng của mình, tuy có thể thất bại, nhưng niềm tin sẽ lấy lại hy vọng để tới đích. Như vậy, nhìn xem nơi mọi người đều có một niềm tin nào đó, mạnh mẽ hay hời hợt, tùy theo việc theo đuổi đến cùng để đạt mục đích hay buông xuôi.
Chúa Giêsu nói với Toma: “Phúc cho ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29).
Niềm tin trải qua: Các biến cố đã xảy ra – Tin vào một người – Tin trong một cộng đoàn.
Sự kiện đã xảy ra.
Một sự kiện đã xảy ra không thể chối cãi, vì đó là một sự thật hiển nhiên, nhiều người đã chứng nhận và Thánh Phêrô nhắc lại: “Giêsu Nazaret, người được Thiên Chúa ủy nhiệm đến với các ông bằng những việc quyền năng, những điềm thiêng cùng dấu lạ, tức là những việc Thiên Chúa đã dùng Ngài để thi hành giữa các ông như các ông biết, — thể theo ý định đã vạch sẵn và sự dự tri của Thiên Chúa mà bị phó nộp, thì các ông đã thủ tiêu Ngài đi, là dùng tay vô đạo đóng đinh thập giá. Thiên Chúa đã cho Ngài sống lại, đã gỡ Ngài khỏi các nỗi đau khổ sự chết, bởi chưng sự chết vô phương cầm hãm được Ngài dưới quyền nó.” (Cv 2, 22 – 24).
Đón nhận sự kiện đó như thế nào lại tùy thuộc vào sự ảnh hưởng của sự kiện ấy với cuộc đời mình. Hai môn đệ trên đường Emmau, tường thuật lại biến cố trong hoang mang và chưa thể quyết định tin hay không tin việc Chúa đã sống lại cho đến khi nhận ra Người lúc bẻ bánh. Người phụ nữ ra mộ từ sáng sớm chỉ nhận ra người ta đã lấy mất xác Chúa và nhận ra Chúa khi Người gọi tên. Các quân lính canh mồ thì biết rõ sự kiện đá lăn ra khỏi mộ và thân xác Chúa thì biến mất, họ được chính quyền mua chuộc để nói các môn đệ Chúa đã lấy cắp xác Chúa…
Cùng một sự kiện, với người ngay lành thì nhận định rõ ràng có điều gì đó chưa hiểu và dẫn tới niềm tin. Với kẻ nói dối quen nghề thì lấp liếm sự thật, dùng uy quyền đàn áp sự thật.
Tin vào một người.
Để có một niềm tin vào một người, người đó cần là một người có đầy đủ uy tín, danh dự trong lời nói, việc làm. Nhiều người tin vào Chúa Giê su vì “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền” (Mc 1, 22). Thế giá của Chúa Giêsu được tôn vinh vì Người thi hành không theo ý muốn nhân loại mà theo ý muốn của Chúa Cha.
Các môn đệ tin vào Chúa với tất cả các yếu tố đòi hỏi cần thiết không hoài nghi. Nhận ra Chúa sống lại và hiện ra tỏ tường với các ngài không như là ma. Đối với các phụ nữ, họ nhận ra Chúa đã sống lại khi Chúa gọi tên, rồi các bà ôm chân Chúa.
Tin vào Chúa, làm chứng về Chúa đã sống lại là một điều khó. Các môn đệ không có bằng chứng vì chỉ có “ngôi mồ trống”. Chúa không hiện ra với nhiều người mà chỉ với một sô ít người được Chúa tuyển chọn. Chính các môn đệ Chúa đã lấy mạng sống mình ra làm bảo chứng cho việc Chúa đã sống lại.
Nhìn vào sự kiện Đồng tâm – Mỹ Đức, ngày nay cũng có thể đọc thấy những chi tiết minh chứng cho sự thật như vậy. Họ không có gì minh chứng ngoài ba những giấy tờ, kẻ đã ký không nhận, những khuất tất trong chiếm dụng, bao nhiêu lần kêu lên mà không được nghe. Cuối cùng cũng liều lấy mạng sống mình ra để bảo đảm cho bằng chứng ấy khi bị áp bức, bắt bớ, trấn áp. Họ không có gì khác mạnh thế hơn chính mạng sống của họ ra để làm chứng cho sự thật. Để có thể tin vào một người, không gì khác hơn, người đó cần có một thế giá, danh dự trong lời hứa, minh bạch và công minh, chính trực trong lời nói cũng như việc làm, là trung gian hòa giải.
Tin trong cộng đoàn.
Đức tin vừa là hành vi cá nhân vừa là hành vi cộng đoàn. “Tôi tin và chúng tôi tin”, niềm xác tín có cộng đoàn nâng đỡ. Trong đêm vọng phục sinh, Chúa Giêsu là lửa mới thắp sáng cây nến phục sinh, và như diễn tả của bài Exsultet: “Giờ đây tôi hiểu thấu ý nghĩa của ngọn nến, thắp ngọn lửa lung linh để Thiên Chúa được ngợi chúc tôn vinh Dù phân chia ở khắp thế gian cũng không hao mòn chi, vì ánh lửa soi sáng đêm nay làm bởi sáp ong do Mẹ đã gây nên”.
Niềm tin chúng tôi tin được long trọng trong lời tuyên xưng: “Vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta”. Đó là một niềm tin không chỉ một người mà đức tin cộng đoàn mạnh mẽ làm chứng cho Chúa.
Có thể tìm thấy sự nâng đỡ của cộng đoàn mỗi khi niềm tin cá nhân gặp thử thách. Như Toma vắng mặt trong những lần Chúa hiện ra, ông cũng nói trong thất vọng: “Nếu nơi tay Ngài, tôi không thấy các đấu đinh, và tra tay tôi vào lỗ đinh, cùng tra bàn tay tôi vào cạnh sườn Ngài, tôi sẽ không tin!” (Ga 20, 25). Sau cùng ông khi gặp Chúa với các môn đệ khác, ông đã vững tin và gọi lên chính xác niềm tin của mình: “”Lạy Chúa tôi và là Thiên Chúa của tôi!” (Ga 20, 28).
Niềm tin vào Chúa đi vào chiều sâu hơn, khi niềm tin xuất trải qua các biến cố cuộc đời, khi không còn cứu cánh nào khác ngoài một mình Chúa, và niềm tin ấy được nuôi dưỡng trong cộng đoàn. Xin Chúa cho chúng con niêm tin xuất phát từ những kinh nghiệm sống.
.
HIỆP THÔNG ĐỂ ĐÓN NHẬN LÒNG THƯƠNG XÓT
Lm. Giuse Nguyễn
Bài giảng trong Thánh Lễ Truyền Dầu hôm thứ Năm Tuần Thánh 2017, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chia sẻ xung quanh chủ đề: Sự thật, lòng thương xót và niềm vui. Ngài nói: “Mong rằng đừng ai cố gắng tách biệt ba ân sủng này của Phúc âm: Sự thật –không thể thương lượng–, Lòng Thương xót –vô điều kiện dành cho tất cả những người tội lỗi–, và Niềm vui –vừa mang tính riêng tư vừa sẵn sàng chia sẻ với mọi người. Sự thật, Lòng Thương xót và Niềm vui: cả ba cùng đi với nhau”.
Từ năm 2000, Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II đã chọn Chúa Nhật II Phục Sinh là Chúa Nhật để kính lòng thương xót Chúa. Qua lời Chúa hôm nay, chúng ta càng nhận ra Sự thật – Lòng thương xót và – Niềm vui là 3 ân sủng của Phúc âm.
I. PHỤNG VỤ LỜI CHÚA
- Bài Đọc I: Cv 2, 42-47
Tác giả sách Công vụ Tông đồ tường thuật lại nét đẹp của cộng đoàn Kitô hữu sơ khai. Những nét nổi bật của họ là: luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng, không quan trọng vấn đề vật chất nên họ để tất cả làm của chung… Lối sống này trở nên lý tưởng cho nhiều người, nhiều cộng đoàn và nhiều quốc gia. Tuy nhiên lối sống này chỉ thực sự có hiệu quả thời các Tông đồ nhờ ánh sáng Phục Sinh; nghĩa là phải có niềm tin, sự linh thánh thì người ta mới hiệp thông, mới tin tưởng, mới dám để mọi sự làm của chung. Còn nếu muốn sống theo lối sống này mà không tin tưởng vào Đấng Phục Sinh, vào sự sống mới, vào những giá trị linh thánh, thì nó chỉ là cơ hội cho một số người lợi dụng để bốc lột người khác và thu gom cho bản thân mình.
Qua lối sống tốt đẹp của cộng đoàn kitô hữu sơ khai, chúng ta nhận thấy được sự hiệp thông chính là yếu tố để thực thi lòng thương xót. Sự hiệp thông đó dựa trên nền tảng của sự tin tưởng, của việc đem đến niềm vui cho nhau, và nhất là tất cả mọi người từ các Tông đồ cho đến các kitô hữu đều có niềm tin vào Đấng Phục Sinh.
- Tin Mừng: Ga 20,19-31
Trong nỗi sợ hãi, các Tông đồ quy tụ với nhau trong một căn phóng mà các cửa đều đóng kín. Dù vui hay buồn, vù đau khổ hay hạnh phúc, dù mạnh mẽ hay sợ hãi… các ông đều có nhau để chia sẻ với nhau. Chính trong không gian quen thuộc này, Đấng Phục Sinh đã hiện ra với các ông dù các cửa phòng đóng kín. Ngài ban bình an cho các ông. Ngài cho các ông xem thân xác Phục Sinh vẫn còn in hằn những vết tích như để các ông thấy rằng Ngài luôn chia sẻ những đau thương của kiếp người với các ông, nhất là trong lúc các ông đang sợ hãi này đây.
Tuy nhiên Tôma đã không cùng ở với anh em mình, nên ông đã không được chứng kiến giây phút ngập tràn hạnh phúc: Thầy đã sống lại. Quả thật, điều đó ngoài sức tưởng tượng của Tôma, nên dù anh em kể lại, ông cũng không tin. Thách thức đòi kiểm chứng những vết thương của Thầy như là một lời khẳng định của Tôma: Sức mấy có chuyện đó!
Câu chuyện tiếp diễn vào tám ngày sau, cũng là khi các ông ở chung với nhau trong một căn phòng, Đức Giêsu Phục Sinh lại hiện đến cũng cùng một cách thức như trước, nhưng lần này, rõ ràng như để khẳng định với Tôma: Thầy đã sống lại thật! Điểm then chốt của hai lần hiện ra này là giữa một cộng đoàn đang cầu nguyện.
Liên kết giữa bài Tin Mừng và bài đọc thứ nhất, chúng ta nhận ra một điều: khi người ta hiệp thông với nhau, thì họ sẽ đón nhận được Lòng Thương Xót Chúa với nhiều hình thức khác nhau.
II. HIỆP THÔNG ĐỂ ĐÓN NHẬN LÒNG THƯƠNG XÓT
- Sức mạnh của sự hiệp thông
Cha ông ta đã có câu: “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “Lá lành đùm lá rách””, “Một cây làm chẳng lên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao”… Nhiều câu chuyện cũng được dùng để minh chứng cho tinh thần đoàn kết, trong đó có câu chuyện bó đũa mà chúng ta đã được biết từ nhỏ. Người cha có 4 đứa con, một hôm ông để bó đũa và một túi tiền trên bàn và nói ai bẻ gãy được bó đũa này sẽ được thưởng túi tiền. Bốn đứa con cố gắng hết sức nhưng không thể nào bẻ gãy được bó đũa. Người cha liền tháo sợi dây ra và bẻ gãy từng chiếc một. Bốn người con đều nói lấy từng chiếc mà bẻ thì có khó gì đâu. Chỉ đợi có vậy, người cha liền nói: “Đúng! Như thế là các con đều thấy rằng chia lẻ ra thì yếu, hợp lại thì mạnh. Vậy các con phải biết đoàn kết và đùm bọc lấy nhau, có như vậy thì mới có sức mạnh”.
Lời dạy của người cha trong câu truyện dân này như là một minh chứng cho lời dạy của Đức Giêsu hơn 2000 năm trước: “Ở đâu có hai ba người họp lại nhân Danh Thầy, thì có Thầy ở giữa họ” (Mt 18, 20). Lời nói này của Đức Giêsu đã được nhiều người áp dụng và có kết quả.
Năm 1571, khi Giáo hội Công giáo đứng trước sự tấn công của kẻ thù, Đức Giáo hoàng Piô V đã kêu gọi toàn thể Giáo hội cầu nguyện bằng tràng chuỗi Môi côi. Kết quả là dù lực lượng yếu hơn, nhưng đoàn quân Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lépante ngày 7-10-1571.
Nhớ lại trong Năm Thánh Lòng Thương Xót, Đức Thánh Cha Phanxicô cũng đã có sáng kiến “24 giờ cho Chúa” đã được nhiều người Công giáo trên khắp thế giới hưởng ứng bằng việc thay phiên nhau Chầu Thánh Thể trong ngày 04/03/2016. Mùa Chay năm nay, Đức Thánh Cha Phanxicô lại mời gọi người Công giáo tiếp tục chương trình “24 giờ cho Chúa” bằng việc canh thức, sám hối với chủ đề: “Ta muốn lòng thương xót”( Mt 9, 13). Ngài nói: “Tôi mời gọi tất cả các cộng đoàn hãy sống trong niềm tin tưởng cuộc hẹn vào ngày 23 và 24-3 này để tái khám phá bí tích Hòa giải: “24 giờ cho Chúa”. Tôi cầu mong rằng năm nay, thời điểm hồng phúc ưu tiên này trong hành trình mùa chay cũng được sống tại bao nhiêu thánh đường để cảm nghiệm cuộc gặp gỡ vui tươi với Lòng Thương Xót của Chúa Cha, Đấng đón tiếp và tha thứ cho tất cả mọi người”. Chắc chắn nhờ việc tốt lành này mà nhiều người trong chúng ta đã cảm nhận được sự sốt sắng trong Mùa Chay năm nay.
Chính vì thế chúng ta càng xác quyết hơn sức mạnh của sự hiệp thông, của lời cầu nguyện tập thể. Vì như các Tông đồ ngày xưa, nhờ việc họ quây quần trong một căn phòng sau khi Thầy mình bị giết chết, mà họ đã được gặp gỡ Đấng Phục Sinh, được ơn bình an và sứ vụ của Ngài. Còn Tôma vì không hiệp thông với anh em mình nên đã không đón nhận được những ơn của ban của Đấng Phục Sinh; chỉ khi nào ông quay về hiệp thông với cộng đoàn, thì ông mới được đón nhận những ơn đó, nhưng sâu xa là ông đón nhận lòng thương xót của Chúa, vì thương xót nên Đấng Phục Sinh mới đối xử với ông như vậy.
- Cùng nhau cầu nguyện để đón nhận lòng thương xót
Dĩ nhiên Thiên Chúa là Đấng “luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”, nhưng như những gì Lòng Thương Xót thể hiện, thì sức mạnh của một tập thể sẽ lớn hơn, và nhanh chóng chạm đến lòng thương xót hơn.
Khi dân chúng phạm tội kêu trách Môsê và Thiên Chúa trong sa mạc, Thiên Chúa đã cho rắn lửa bò ra cắn chết nhiều người, nhưng khi dân van xin thì Thiên Chúa đã dạy họ ngước nhìn lên con rắn đồng để được cứu. Đó là sự sám hối của tập thể, của cộng đoàn. Hay như người bại liệt trong Tin mừng Lc 5, 17-26 đã được 4 người thòng từ mái nhà xuống trước mặt Đức Giêsu, và Ngài đã chữa lành cho anh ta nhờ lòng tin của họ.
Thánh lễ kính lòng thương xót Chúa trong năm Gia đình này một lần nữa nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của việc cùng nhau cầu nguyện. Vì thế, mỗi gia đình hãy tái lập lại giờ kinh hôm chung với nhau, vì chính lúc đó, lòng thương xót của Chúa đang mở rộng để chờ đợi thực hiện cho gia đình chúng ta những điều tốt đẹp nhất. Mỗi khi có những khó khăn, hãy xin cộng đoàn cầu nguyện cho chúng ta, chắc chắn sẽ có hiệu quả hơn nếu chúng ta cầu nguyện một mình. Khi gia đình có những vấn đề nan giải, hãy tìm đến với cộng đoàn để cùng nhau van xin lòng thương xót Chúa.
Thêm một kinh nghiệm của những nhà tu đức: để cho lời cầu nguyện của chúng ta tha thiết hơn, chân thành hơn thì hãy kết hợp nó với Bí tích Giải tội. Vì vậy, mỗi khi muốn cầu nguyện cho người khác, hãy đi xưng tội, vì lời cầu nguyện của người sạch tội thì hiệu nghiệm hơn.
Chúng ta vừa đón nhận Sự thật – Lòng thương xót và – Niềm vui từ lời Chúa. Sự thật đó là Đấng Phục Sinh hiện diện trong cộng đoàn. Lòng thương xót là việc Đấng Phục Sinh sẵn sàng đáp ứng đòi hỏi của Tôma để ông tin Chúa đã Phục Sinh khi ông biết quay về hiệp thông với anh em mình. Niềm vui chính là ơn bình an và sứ mạng mà Đấng Phục Sinh đã trao ban cho nhóm 12, từ đó lan tràn trên khắp thế giới.
Nhận ra được điều đó, chúng ta hãy biết hiệp thông với nhau để van xin lòng thương xót Chúa, cụ thể cho các gia đình đang gặp khó khăn thử thách, nhất là những gia đình đang có nguy cơ đổ vỡ; cho các bạn trẻ chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân biết quý trọng những giá trị linh thánh mà Đấng Phục Sinh đã trao ban cho con người bởi lòng thương xót của Ngài.
Lạy Chúa, xin thương xót chúng con và gia đình chúng con.
.
Lm. Antôn
Ông bà anh chị em thân mến. Tôi nghĩ rằng câu chuyện sau đây là câu chuyện có thật đã xảy ra tại tiểu bang Texas. Chủ của một quán “bar” ở thành phố Mt. Vermon quyết định mở rộng quán của mình. Giáo phái Tin lành địa phương, là một Giáo phái không chấp thuận uống rượu, quyết định mở một cuộc vận động cầu nguyện liên nỉ để ngăn chặn việc mở rộng quán bar. Công trình xây dựng mở rộng quán bar tiến hành cho đến tuần cuối cùng trước khi khai trương, mở cửa thì bị xét đánh và thiêu hủy toàn thể khu vực quán bar. Sau khi quán bar bị thiêu hủy, những tín hữu trong Giáo phái Tin lành địa phương này bắt đầu khoe khoang, tán dương về hiệu quả và sức mạnh của lời cầu nguyện. Vì thế, chủ của quán bar đưa đơn kiện Giáo phái này ra tòa căn cứ vào lý do: Giáo phái này phải chịu trách nhiệm về hành động trực tiếp hay gián tiếp vào sự tiêu hủy quán bar. Ra tòa, ông chánh án đọc và xem xét những lời buộc tội của chủ quán và những lý do của Giáo phái Tin lành đưa ra phản đối, chống lại. Sau đó ông chánh án đã bình luận rằng: “Tôi không biết phải xử vụ án này ra sao! Nhưng hình như chúng ta có thể nhận xét ở đây là: một bên người chủ quán bar tin vào sự hiệu nghiệm và sức mạnh của lời cầu nguyện. Ngược lại bên kia, toàn thể tín hữu của Giáo phái Tin lành này lại không tin vào sự hiệu nghiệm sức mạnh và quyền năng của lời cầu nguyện!”
Ông bà anh chị em thân mến. Bài Tin mừng hôm nay rất phong phú về ý nghĩa và nhiều chủ đề rất quan trọng, và một trong những chủ đề quan trọng là đức tin. Bài Tin mừng cho chúng ta biết Chúa Giê-Su Phục Sinh hiện ra ban cho các môn đệ ơn bình an thật. Người ban cho họ một mệnh lệnh tiếp tục sứ vụ của Người, Chúa nói: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con.” Và để giúp các môn đệ chu toàn sứ vụ quan trọng này, Chúa hứa ban Thánh Thần phù trợ, và một công việc trong sứ vụ này mà họ sẽ phải làm là tha tội. Sứ vụ tha tội này đưa đến sự kiện về việc chỉ định Chúa nhật này là Chúa nhật Lòng Thương Xót. Tuy nhiên chúng ta biết lòng thương xót của Chúa không chỉ thu hẹp vào tuần này, nhưng Thiên Chúa sẵn sàng tha thứ tội lỗi bất cứ lúc nào chúng ta chạy đến với Người, với tâm hồn ăn năn thống hối chân thành.
Sau đó chúng ta được nghe câu chuyện của Tô-ma, người đã vắng mặt khi Chúa hiện ra một tuần trước đó. Trong lần hiện ra này, Chúa đã cho các tông đồ xem tay chân và cạnh sườn, thấy những vết thương Người đã chịu trong cuộc khổ nạn, để các ông tin rằng Người đã sống lại thật, và để củng cố đức tin cho các ông. Tin mừng không cho chúng ta biết lý do tại sao Tô-ma không có mặt cùng với anh em của mình khi Chúa hiện ra, vì thế sau khi trở về, ông từ chối không tin việc Chúa đã phục sinh sống lại cho đến khi có những bằng chứng xác thực, đó là được thấy và sờ vào thân thể và chạm vào những vết thương của Chúa. Chúa đã ban cho ông ân sủng chứng kiến tận mắt và nhìn thấy những dấu chứng lần hiện ra này, một tuần sau đó, có sự hiện diện của ông. Chúng ta không thể tưởng tượng được niềm vui của các tông đồ to lớn như thế nào. Khi Chúa hướng cái nhìn về phía Tô-ma thì có lẽ mọi cặp mắt của các tông đồ đều hướng về đó, đợi chờ một sự “phán xét” hay “hình phạt” của Chúa. Chúng ta cũng có thể nghĩ rằng làm sao các tông đồ quên được thái độ khép lòng và cứng lòng tin của Tô-ma. Thế nhưng Chúa đã làm gì? Không một lời khiển trách nặng nề. Trước thái độ quá bất ngờ của Chúa, Tô-ma đã nói lên niềm tin của mình bằng những lời tuyên xưng thật đẹp: “Lạy Chúa của con. Lạy Thiên Chúa của con.” Với lời tuyên xưng này, đức tin của Tô-ma đã vươn lên một tầm cao mới, đó là, tin mà không cần thấy. Cuối cùng, Chúa tuyên bố với tất cả mọi người biết phúc cho những ai không có những kinh nghiệm của Tô-ma và những người khác có, Chúa nói: “Phúc cho những ai đã không thấy mà tin.” Có nghĩa là, Chúa kêu gọi chúng ta vượt qua mức độ tin thấp, đó là, tin vì thấy hay dựa vào những bằng chứng thực tế, để vượt lên mức độ tin cao hơn, đó là, tin mà không cần thấy, không cần sờ hay không dựa vào những bằng chứng, mà dựa vào tình yêu.
Mấy tuần trước trong Mùa Chay, tôi có đọc một cuốn sách viết về những khái niệm thông thường của đức tin của thánh Gioan Thánh giá, tiến sĩ Giáo hội. Ngài nói rằng đức tin cho chúng ta hiểu biết những điều chúng ta không thấy. Đây là một sự hiểu biết siêu nhiên, không thể có được do những sự kiện hiển nhiên hay do sự suy luận của lý trí. Ngài nói tiếp, đức tin không trái ngược hay mâu thuẫn với lý trí, nhưng những gì đức tin truyền đạt cho chúng ta không thể có được do lý trí. Trong cuộc sống đời này, chúng ta không thể hiểu biết hoàn toàn Thiên Chúa là gì, chỉ nhờ Kinh thánh mà chúng ta biết Thiên Chúa là tình yêu. Và chỉ qua đức tin, về phía chúng ta, và ân sủng, do Chúa ban, mà chúng ta mới có thể vượt lên và tiến xa hơn trong tiến trình hiểu biết Thiên Chúa và kết hợp với Người mật thiết hơn. Thánh Gioan Thánh giá khẳng định một cách đơn giản rằng: “Khi đức tin của một người triển nở lớn hơn, cao hơn người đó sẽ khắng khít và yêu mến Chúa hơn.”
Thánh Tô-ma và những tông đồ khác dĩ nhiên phải xem thấy Chúa Ki-tô Phục sinh tận mắt, và chúng ta không biết các ngài có sờ tận tay vào những vết thương của Chúa không. Nhưng chúng ta biết các ngài đã có một đức tin vào Chúa lớn hơn và một có tình yêu mạnh mẽ và mật thiết hơn với Chúa. Các ngài mang một trọng trách, một sứ vụ rất quan trọng là làm chứng một cách xác thực sự sống lại của Chúa cho những người không thấy để họ tin và yêu mến Chúa Ki-tô Phục sinh. Tin mừng thánh Gioan chương sau đó cho chúng ta biết qua lòng yêu mến và đức tin này mà chúng ta có sự sống trong Danh Thánh Chúa, một sự sống sẽ dẫn đưa chúng ta một ngày nào đó được rờ tận tay và xem tận mắt dung nhan của Thiên Chúa trên Nước Trời.
Xin cho tất cả chúng ta có lòng xác tín vào Chúa Giê-si Ki-tô Phục sinh, để chúng ta trở thành sứ giả lòng thương xót của Chúa, và can đảm trở thành nhân chứng của Chúa trong lời nói và việc làm. Chúng ta hãy nhớ, chúng ta không thể trở thành sứ giả, chứng nhân cho Chúa và rao giảng Tin mừng cho người khác, nếu chúng ta không sống Tin mừng, hay không sống chính cuộc đời của Chúa Giê-su.