121. Hai người đang nói chuyện với nhau, mà em có chuyện cần muốn gặp một trong hai người đó, em phải xin phép người kia.
122. Nên gọi chính tên của mỗi người, không dùng biệt danh để gọi họ. Ví dụ: H khùng, T què…
123. Khi muốn thưa chuyện với người trên thì em nên gọi chức vụ của họ. Ví dụ: Thưa cha xứ, thưa cha phó, thưa ông chủ tịch, thưa bác sĩ…
124. Nói với người trên bao giờ cũng tỏ ra tôn kính, như: dạ, vâng, thưa không, thưa biết; chứ đừng nói trống: hả, ừ, biết, không, muốn… hoặc chỉ lắc, gật đầu!
125. Khi ngồi trên xe buýt,… em thấy có người già, trẻ em, phụ nữ mang thai, người tàn tật, em nên nhường chỗ ngay.
126. Khi thấy có người già, trẻ em cần qua đường, em hãy sẵn sàng giúp họ.
127. Không nên đùa giỡn chọc ghẹo người khác bằng những lời lẽ mang nội dung hạ phẩm giá của họ. Ví dụ: “Chị quá khổ người thế này, sống chi cho chật đất!”, hoặc “chị xấu thế này sao lấy chồng được!”…
128. Không ưa ai, em cũng không được gọi họ là thằng, nó, con mẹ đó… trái lại, luôn lịch sự dựa trên địa vị, tuổi tác người đó mà nói. Cụ thể: ông cụ X, chị Z, bà A…
129. Cũng không đối thoại với ai bằng cách xưng hô mày tao, mà nên thân mật gọi nhau bằng anh, chị, em hoặc gọi tên nhau.
130. Muốn bắt tay ai, người dưới phải đợi người trên đưa tay ra trước.
131. Khi nói chuyện với ai, em phải nhìn vào mặt người đang nói.
132. Phải tôn trọng nhau trước tập thể, dù em quá quen thân với họ, nếu người ấy có chức vụ, em phải tỏ ra tôn kính, chứ đừng tỏ cử chỉ suồng sã, kiểu cá mè một lứa.