Ngay cả các vị thánh cũng phải thắng vượt sự nghi ngờ
“Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Gioan 20:29).
Thánh Tôma Tông đồ có thể đã bị mang tiếng xấu: mọi người nhớ đến thánh nhân vì nghi ngờ lời kể đầy phấn khích của các Tông đồ khác rằng họ đã nhìn thấy Chúa phục sinh (Ga 20: 24-25), nhưng chúng ta thường bỏ qua việc thánh nhân sẵn lòng chết vì Chúa Giêsu trước đó (Ga 11:16) và hoạt động truyền giáo sau này của ngài cũng như cái chết tử vì đạo của ngài.
Thật vậy, so với những khó khăn ban đầu trong đức tin của Tôma, điều quan trọng hơn nhiều là lời tuyên xưng đức tin của ông: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20:28) Hơn nữa, những nghi ngờ của Tôma thực sự đã hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa. Thánh Grêgôriô Cả viết:
“Anh em thật sự tin rằng người môn đệ được tuyển chọn này vắng mặt chỉ là ngẫu nhiên, rồi sau đó ông đến nghe, nghe rồi nghi ngờ, nghi ngờ rồi xúc động, xúc động rồi tin tưởng sao? Việc đó không ngẫu nhiên mà là do sự quan phòng của Thiên Chúa. Một cách kỳ diệu, lòng thương xót của Thiên Chúa đã sắp đặt để người môn đệ vô tín này, khi chạm vào những vết thương trên thân thể Thầy mình, sẽ chữa lành những vết thương vô tín của chúng ta. Sự vô tín của Tôma giúp ích cho đức tin của chúng ta nhiều hơn đức tin của các môn đệ khác. Khi người ấy chạm đến Chúa Kitô và được đức tin chinh phục, thì mọi nghi ngờ đều bị gạt bỏ và đức tin của chúng ta được củng cố. Vì vậy, người môn đệ nào nghi ngờ, rồi sờ vào các vết thương của Chúa Kitô, sẽ trở thành chứng nhân cho thực tại Phục Sinh” (Bài giảng. 26, 7-9: PL 76, 12010-12020).
Nghi ngờ không phải là tội lỗi khi nó dẫn chúng ta đến đức tin lớn hơn; một cuộc đấu tranh chân thành với sự thật có thể dẫn đến một sự cam kết mạnh mẽ hơn, trưởng thành hơn với Chúa Kitô. Sự hoài nghi nào mà ít ra vẫn sẵn sàng để người khác thuyết phục sẽ cho phép Thiên Chúa làm được những điều vĩ đại. Chúng ta thấy điều này trong trường hợp của Thánh Batôlômêô, còn được gọi là Nathanael. Khi người bạn của thánh nhân là Thánh Philipphê nói về Chúa Giêsu thành Nazareth như Đấng đã được tiên tri sẽ đến, Batôlômêô tự hỏi liệu có điều gì đáng giá có thể đến từ một nơi tầm thường như Nazareth hay không. Tuy nhiên, vì ông là “Đây đích thật là một người Israel, lòng dạ không có gì gian dối” (Ga 1:47) nên Batôlômêô đã có thể nhận ra và chấp nhận Chúa Giêsu rất nhanh chóng.
Tuy nhiên, nhìn nhận Chúa Giêsu là Thiên Chúa không miễn trừ chúng ta khỏi những khủng hoảng đức tin. Thánh Jeanne Frances de Chantal thường xuyên bị nghi ngờ và cám dỗ chống lại Đức tin vào cuối đời, nhưng ngài vẫn vui vẻ và năng động; Thánh Thérèse Lisieux đáp lại tình huống tương tự bằng sự quyết tâm, kêu lên: “Tôi tin!” khi bị cám dỗ hoài nghi.
Đức tin đúng là một ân huệ từ Thiên Chúa, nhưng cũng là điều chúng ta phải sự lựa chọn – và khi chúng ta quyết định, chúng ta tin và hành động theo đó, mặc dù điều đó có vẻ khó khăn hoặc không thể làm được, hoặc thậm chí giống như rất nhiều lời nói trống rỗng, thì chúng ta dâng cho Chúa vinh quang lớn lao.
Những người thánh thiện hoàn toàn có khả năng trải qua những nghi ngờ, và bởi vì họ đã cảm nhận sâu sắc hơn về sự hiện diện của Thiên Chúa trong quá khứ, nên việc mất đi sự an ủi của Ngài dường như càng đau đớn hơn. Vị linh mục đạo đức người Ý, thánh Padre Pio Pietrelcina, qua đời năm 1968, đã mô tả những đau khổ tinh thần của mình trong một lá thư gửi cho một linh mục đồng nghiệp:
“Những lời báng bổ liên tục xuất hiện trong tâm trí tôi, và thậm chí còn nhiều hơn những ý tưởng sai lầm, những ý tưởng về sự không chung thủy và không tin tưởng. Tôi cảm thấy tâm hồn mình như bị thay đổi trong từng khoảnh khắc của cuộc đời; nó giết chết tôi. . . . Đức tin của tôi chỉ được giữ vững bằng ý chí nỗ lực không ngừng chống lại mọi hình thức thuyết phục của con người. Đức tin của tôi chỉ là thành quả của nỗ lực không ngừng mà tôi đòi hỏi ở bản thân mình. Và thưa Cha, tất cả những điều này không phải là chuyện xảy ra vài lần trong ngày mà là liên tục. . .” (Rev. Joseph M. Esper, Saintly Solutions to Life’s Common Problems: From Anger, Boredom, and Temptation to Gluttony, Gossip, and Greed, Sophia Institute Press, Manchester, New Hampshire, 2001).
Cha Pio đã nhận được nhiều ân sủng thiêng liêng, và những lời cầu nguyện của ngài được biết là có hiệu quả đặc biệt trước mặt Thiên Chúa – tuy nhiên Chúa lại để ngài phải chịu đựng những nghi ngờ mãnh liệt.
Con đường nên thánh thường gập ghềnh, nhiều khi thiếu những dấu hiệu trấn an chúng ta về hướng đi của mình, nhưng Chúa ở cùng chúng ta trong cuộc hành trình, giúp đỡ chúng ta từng bước trên đường đi. Ngài sẽ làm phép lạ thay cho chúng ta nếu cần thiết, nhưng thay vào đó, Ngài thường chọn sử dụng người khác – điều đó càng tốt hơn để kiểm tra đức tin của chúng ta nơi Ngài.
Người ta kể rằng, vài ngày sau khi chết đuối ở Biển Địa Trung Hải gần Thánh địa vào năm 1237, Chân phúc Jordan Saxony hiện ra trong giấc mơ với một tu sĩ trẻ dòng Carmel vốn đang bị dày vò bởi những nghi ngờ về ơn gọi của mình và trấn an anh ta: “Này anh, đừng sợ. Bất cứ ai phục vụ Chúa Giêsu Kitô đến cùng sẽ được cứu” (ibid). Sự kiên trì là cần thiết nhưng không phải lúc nào cũng dễ dàng.
Thánh Ambrosiô, giám mục Milan, có một chị gái cũng cố gắng nên thánh nhưng lại bị cám dỗ nghi ngờ chống lại Đức tin. Đáp lại lời của chị mình xin lời khuyên để vượt qua những cám dỗ này, thánh nhân viết: “Mỗi sáng tối hãy nhiệt thành đọc Kinh Tin Kính của các Tông đồ, và khi những cám dỗ như vậy xảy đến, hãy đọc lại, và chị sẽ dễ dàng vượt qua chúng” (ibid). Chị của ngài đã làm theo gợi ý này và nhận được sự trợ giúp rất lớn từ lời khuyên đó.
Đức tin không chỉ là cảm giác mà chúng ta có; đó là một quyết định chúng ta đưa ra. Khi chúng ta chọn tin vào Chúa, Ngài sẽ ban cho chúng ta phương tiện không chỉ để kiên trì trong đức tin mà cuối cùng còn khiến đức tin đó trở nên sâu sắc và mạnh mẽ hơn.
Suy ngẫm thêm
“Điều răn thứ nhất buộc chúng ta nuôi dưỡng và giữ gìn đức tin cách cẩn trọng; đồng thời loại bỏ tất cả những gì nghịch cùng đức tin. Có nhiều tội nghịch cùng đức tin. Cố tình hoài nghi trong lãnh vực đức tin là tội xem thường hay không nhìn nhận là chân thật những điều Thiên Chúa mặc khải và Hội Thánh dạy phải tin. Tội vô tình hoài nghi là do dự không tin, không cố gắng vượt qua những vấn nạn đức tin hay khủng hoảng trước bóng tối của đức tin. Nếu cố chấp, hoài nghi sẽ làm cho tâm trí nên mù quáng” (Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo, số 2088).
Thánh Bonifaciô nói: “Trong cuộc hành trình vượt đại dương trần thế này, Giáo hội giống như một con tàu lớn đang bị đập mạnh bởi những làn sóng mãnh liệt khác nhau của cuộc sống. Nhiệm vụ của chúng ta không phải là bỏ rơi con tàu mà là giữ cho nó đi đúng hướng” (Kinh sách mùng 5 tháng 6).
Thánh Augustinô nói: “Đức tin mở ra cho sự hiểu biết; sự vô tín sẽ đóng hiểu biết đó lại” (Thư 137, năm 412, chương 4, số 15).
Bạn có thể thử điều gì đó
Thánh Alphonsô Liguori nói với chúng ta: “Đức tin là nền tảng của đức ái, trên đó tình yêu được xây dựng. Nhưng đức ái là thứ đưa đức tin đến sự hoàn hảo. Chúng ta càng yêu mến Thiên Chúa một cách hoàn hảo thì chúng ta càng tin vào Ngài một cách hoàn hảo” (Toàn bộ tác phẩm khổ hạnh của Thánh Alphonsô, Tập 6: Việc thực hành tình yêu của Chúa Giêsu Kitô, Chương 11: Ai yêu mến Chúa Giêsu Kitô thì tin tất cả Lời Ngài, số 430).
Vì vậy, nếu chúng ta gặp khó khăn trong việc thực hiện một hành động đức tin vào Thiên Chúa thì điều quan trọng hơn hết là chúng ta phải thực hiện một hành động yêu thương – bằng cách cố gắng làm một việc tốt, bằng cách giúp đỡ người mà chúng ta không thích hoặc không bao giờ nghĩ đến, hoặc bằng bất cứ hành động bác ái nào mà chúng ta đặc biệt thực hiện nhân danh Chúa Kitô.
Hãy nhớ rằng Chúa ở cùng bạn. Khi Thánh Catarina Siena trải qua một thời gian dài khô khan và cám dỗ về mặt thiêng liêng, ngài đã kêu lên: “Lạy Chúa, Chúa đã ở đâu? Con đã có những suy nghĩ và cảm xúc khủng khiếp.” Thánh nữ nghe thấy Chúa trả lời: “Catarina, Ta đã ở trong trái tim con suốt thời gian qua. Chính Ta là người đã cho con lòng dũng cảm và sức mạnh để tiếp tục bước đi mỗi ngày!” Chúa luôn ở bên Catarina – và nếu bạn thực sự tìm kiếm Ngài, Ngài sẽ ở bên bạn.
Tác giả: LM Joseph M. Esper, catholicexchange.com.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.