Trưởng thành tâm linh
Trưởng thành một cách đầy đủ cho đúng với tầm mức một con người đòi hỏi và bao gồm trưởng thành về thể lý, tâm lý, sinh lý và tâm linh. Và nếu có thể nghiêng về một trong những yếu tố trưởng thành ấy, chúng ta có đủ lý do để nhấn mạnh đến sự trưởng thành của tâm linh.
Thế giới gần đây đang trải qua nhưng giấc mơ kinh hoàng do bọn khủng bố quốc tế gây ra. Khởi đầu là biến cố 11 tháng 9 năm 2001 tại Hoa Kỳ do Osama Bin Ladin chủ mưu. Ngày 12 tháng 10 năm 2002, vụ nổ bom đẫm máu tại Bali, trung tâm du lịch thế giới thuộc Nam Dương Quần Đảo do nhóm Jemaah Islamiah thực hiện. Tiếp tới là vụ bắn sẻ ở Hoa Thịnh Đốn và các vùng phụ cận do John Allen Muhammad và John Lee Malvo ra tay bắt đầu từ 2 tháng 10 và kết thúc vào 24 tháng 10 năm 2002 khi cả hai đều bị bắt. Và ngày 23 tháng 10 năm 2002, một nhóm gồn 40 tên khủng bố người Chechnya đã đột nhập một nhà hát tại thủ đô Moscow của Nga uy hiếp và bắt giữ toàn bộ con tin. Những cuộc khủng bố mà những kẻ chủ mưu ít nhiều liên quan tới mạng lưới Al Quaeda, một tổ chức Hồi Giáo Cựu Đoan.
Đúng ra, thế giới đang lên cơn sốt trước thái độ quá khích và cuồng tín của một số thành phần thiếu trưởng thành về tâm linh. Bọn họ là những người nhân danh tôn giáo, và dưới chiêu bài tôn giáo đang làm cho thế giới phải đảo lộn, mất ăn và mất ngủ. Không những thế, chính họ đã làm cho bao nước mắt và máu lệ đổ ra trên chính quê hương họ. Ở vào một thời đại thế giới văn minh, khi nhân vị con người được tôn trọng, thì tại một vài nơi trên thế giới, vẫn có những tư tưởng lỗi thời cho rằng phụ nữ phải ở nhà, phải mang khăn che mặt khi ra đường. Hoặc những luật pháp man rợ của thuở con người còn ăn lông, ở lỗ cho phép xử tử bằng cách ném đá. Trong tương lai, chắc các nhà tâm lý, các nhà đạo đức, và các nhà xã hội học sẽ phải mất rất nhiều giấy mực để bàn về những con người và hành động bệnh hoạn của họ này. Do đó, khi đề cập đến sự trưởng thành của tâm linh là nói tới một giá trị hoàn chỉnh theo ý nghĩa cao nhất của nó.
Câu nói rất thời danh của Thánh Gioan Boscô mà theo tôi, ông tổ ngành Phân Tâm Học là Freud, cha đẻ của ngành Phát Triển Luân Lý là Kohlberg, và cha đẻ của Hữu Lý Tình Cảm là Ellis nếu có dịp nghe tới chắc cũng phải ngả mũ thán phục, đó là: “Muốn làm thánh nhân thì phải làm một con người trước đã”. Sự thánh thiện mà Gioan Boscô nói tới ở đây là sự trưởng thành về tâm linh, và con người chính là con người trưởng thành và phát triển đầy đủ về thể lý và tâm sinh lý. Thật vậy, khi công nhận một người nào đó là thánh nhân, là anh hùng, điều chắc chắn là chúng ta phải thấy ở người đó những điểm trổi vượt, và hơn chính ta. Một cách thực tế hơn, là chúng ta phải “khẩu phục, tâm phục” người ấy. Mặt khác, để được người đời nể phục như vậy, tuyệt đối không có ảnh hưởng của những hành vi ấu trĩ, thiếu trưởng thành, và nhất là cuồng tín khi đề cập đến khía cạnh thuộc đời sống tâm linh của những người ấy. Một người có thể bề ngoài siêng năng tới chùa, tới thánh đường. Có thể là sốt sắng tụng kinh, cầu nguyện. Hoặc cũng có thể hăng say với những sinh hoạt tôn giáo. Nhưng trên tất cả, những hành động ấy, những tư tưởng ấy, và niềm tin ấy phải phát xuất từ sự trưởng thành và quân bình về mặt tâm linh. Buông thả hoặc sốt sắng quá độ là hai thái cực một người trưởng thành tâm linh cần phải nhận thức và xa tránh.
Như trên vừa đề cập đến Freud, đến Kohlberg, và đến Ellis, vì cả ba người này ít nhiều đã có những quan niệm về tâm lý gần gũi và liên quan đến điều mà chúng ta gọi là tâm linh, là động lực tôn giáo. Nhưng cái nhìn tâm linh ấy không hẳn là những gì theo nghĩa thuần túy tôn giáo và đạo đức. Do đó, khi đề cập đến Siêu Ngã (Superego) của Freud hay những chặng đường phát triển về đạo đức của Kohlberg, hoặc phân tích sức mạnh của tôn giáo theo Ellis, tất cả đều chỉ là những điểm liên quan ít nhiều đến quan niệm đạo đức xã hội của con người.
Freud với cái nhìn Phân Tâm Học, cho rằng hội chứng tâm lý đã đến từ sự bất quân bình và căng thẳng giữa bản năng và siêu hình mà bản ngã không hóa giải được. Tức là có những căng thẳng của bản năng tự nhiên với những ràng buộc và đòi hỏi của tâm linh. Hay nói theo Tông Đồ Phaolô là “Có những cái tôi muốn làm thì lại không làm, mà có những cái tôi không muốn làm thì lại làm” (Rm 7:15). Đó là căng thẳng, là giành dựt giữa những gì thuộc về thế giới vật chất và những gì thuộc về thế giới tâm linh, đạo đức.
Một cách tương tự, Kohlberg cũng đề cao những giá trị đạo đức và liệt kê sự phát triển này ở vào giai đoạn chót tức là giai đoạn cuối của 6 giai đoạn trong tiến trình phát triển đạo đức. Ông gọi đây là Nguyên Tắc Của Lương Tâm. Phải và trái, đúng và sai ở đây cần được thẩm định bởi căn bản cá nhân lựa chọn dựa vào những nguyên tắc luân lý và đạo đức chung. Luân lý và đạo đức, do đó, phải là quan niệm rõ ràng và được thừa nhận của chung nhân loại. Và sự trưởng thành ở đây chính là biết nhận ra và ứng dụng nguyên tắc đạo đức ấy vào cuộc sống và từng hoàn cảnh sống cho phù hợp và thích nghi với những điều kiện của riêng từng cá nhân. Sự lựa chọn ấy, cách thức ứng dụng ấy Kohlberg gọi là sự trưởng thành của đạo đức.
Tiếp tới Ellis, ông quan niệm tôn giáo trong Hữu Lý Tình Cảm bằng cách cho tôn giáo một chỗ đứng hết sức trang trọng và cần thiết. Sức mạnh tôn giáo, sức mạnh của niềm tin, theo ông có thể phá hủy và làm tan biến cả một nhân loại. Bởi vì sự thành hình của nó đến từ những ảnh hưởng di truyền, môi trường, và giáo dục. Vì thế khi dụng tới bức tường niềm tin, bức tường tôn giáo thì khó ai hoặc quyền lực nào có thể thắng nổi. Lịch sử đã chứng minh điều này. Trải qua hàng bao thế hệ, không một bạo chúa nào, không một chính quyền nào có thể dập tắt ngọn lửa niềm tin. Trong thế kỷ của chúng ta, chủ thuyết Cộng Sản, và việc người Cộng Sản dùng những thủ đoạn hết sức tinh vi và cả những thủ đoạn hết sức đê tiện cũng không vượt thắng nổi sức mạnh của tôn giáo. Thí dụ điển hình như trong hoàn cảnh bị áp bức hiện nay tại Việt Nam, không phải một, hai, ba, mà tất cả các tôn giáo khi người Cộng Sản chạm tới niềm tin, họ đều gặp những kháng cự rất mãnh liệt. Lý do rất đơn giản là tất cả những ý nghĩa và hành động ấy đều xuất phát từ tâm thức tôn giáo và được thúc đẩy bởi sức mạnh tâm linh.
Trưởng thành tâm linh hay thiếu trưởng thành tâm linh là hai cực của một Parable. Sự trưởng thành là trục hướng đi lên, ngược lại, thái độ thiếu trưởng thành là trục hướng đi xuống. Hành động trưởng thành sẽ đem lại hoa trái tốt, còn hành động thiếu trưởng thành sẽ dẫn tới những hành vi cuồng tín và mê tín. Trong tâm lý học, nhất là tâm bệnh học, nhiều người đã bị ảnh hưởng một cách trầm trọng do thái độ thiếu trưởng thành này. Những hội chứng như ảo tưởng, ảo giác, hoặc ảo ảnh đã thường thấy nơi những người có một niềm tin ấu trĩ và lệch lạc. Họ là những người rất dễ đi vào những mê tín và để mình bị cuốn hút hoặc chi phối bởi những hành động cuồng tín. Sự thiếu trưởng thành tâm linh càng trở thành ghê sợ hơn, khi người ta nhân danh niềm tin, nhân danh tôn giáo để hành động dưới sức cuốn hút của một tâm lý bệnh hoạn. Điều này giải thích tại sao có những kẻ mang bom tự sát. Hoặc có những kẻ nhân danh Thượng Đế để tàn sát và ghiết hại người khác.
Tóm lại, trưởng thành tâm linh là một điều hết sức quan trọng. Không những nó đòi hỏi sự kiểm soát bản năng, tâm sinh lý mà còn phải kiểm soát cả những hành động ta làm nhân danh tôn giáo nữa. Hiểu một cách đúng đắn những đòi hỏi của tôn giáo, và thực hành một cách nghiêm chỉnh những đòi hỏi ấy trong sự hài hòa và thực tế với tâm thức chung, lúc ấy ta mới có một sự trưởng thành về tâm linh. Tôn giáo hay đạo chính là đường. Đường đưa ta tới Thượng Đế, tới Vĩnh Hằng. Thượng Đế không bao giờ hận thù, chia rẽ hay tàn bạo. Những gì gắn liền với Thượng Đế là bình an, là hoan lạc, và là hạnh phúc vĩnh cửu. Như vậy, chỉ có những người thiếu trưởng thành về tâm linh mới dùng đạo như một phương tiện khủng bố, gây kinh hoàng, nhất là tạo sự chia rẽ và khống chế kẻ khác. Khi nhìn tôn giáo và sự trưởng thành tâm linh bằng cái nhìn tâm lý giáo dục, chúng ta có bổn phận phải thức tỉnh chính mình. Bằng những suy tư, lối sống, và hành động trưởng thành, phải hướng dẫn con cái, tuổi trẻ biết nhìn tôn giáo như con đường dẫn tới thiện hảo, tới hiểu biết và thông cảm, hơn là quan niệm cho rằng chỉ tôn giáo mình là nhất, và mình cần phải nhân danh Thượng Đế, nhân danh tôn giáo để khống chế người khác, hoặc ít nhất là dùng ảnh hưởng tôn giáo gây chia rẽ và tạo sự bất ổn trong đời sống xã hội.