TÔN VINH CHÚA BA NGÔI TRONG CUỘC SỐNG KI-TÔ HỮU
Trong trình thuật việc Đức Giê-su chịu phép rửa tại sông Giô-đan, thánh Mác-cô đã tóm tắt mấy dòng sau đây: “Hối ấy, Đức Giê-su từ Na-gia-rét miền Ga-li-lê đến, và được ông Gio-an làm phép rửa dưới sông Gio-đan. Vừa lên khỏi nước, Người liền thấy các tầng trời xé ra, và thấy Thần Khí tựa chim bồ câu ngự xuống trên mình. Lại có tiếng từ trời phán rằng: ‘Con là con yêu dấu của Cha, Cha hài lòng về Con’ ” (Mc 1, 9-11).
Một bức tranh chấm phá nhẹ nhàng, nhưng rất sinh động, rất ý nghĩa, đầy ấn tượng về sự hiện diện của Cha và Thánh Thần trong giờ phút linh thiêng, giới thiệu và chuẩn nhận nguồn gốc, vai trò, sứ mệnh của Con, Đức Giê-su Na-da-rét, Ngôi Hai Thiên Chúa làm người. Đây cũng là một cách nhìn thần học rất sâu sắc của thánh sử về một biến cố đặc biệt, về một mầu nhiệm quan trọng trong cuộc đời của Đức Giê-su.
Thực ra, không phải chỉ có lúc xảy ra phép rửa ở sông Gio-đan chúng ta mới nghe nói về Ngôi Cha, về Ngôi Thánh Thần, mà qua Tin Mừng, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra việc Đức Giê-su luôn sống, hoạt động, suy nghĩ và cầu nguyện với Cha.
Thánh Lu-ca đã tường thuật ngắn về việc Đức Giê-su lúc mười hai tuổi, ngồi giữa các bậc thầy Do thái ở Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, vừa nghe họ, vừa đặt câu hỏi. Khi cha mẹ Ngài là ông Giu-se và bà Ma-ri-a tìm thấy Ngài trong Đền Thờ, lên tiếng hỏi về việc lạc mất con, Ngài đã trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (x. Lc 2, 41-50).
Câu nói trên của Đức Giê-su vừa là một trả lời vấn nạn của cha mẹ, vừa là một khẳng định về mạc khải mối quan hệ đặc biệt giữa Ngài và Cha của Ngài. Thực vậy, trong cuộc đời tại thế của mình, Đức Giê-su đã chứng tỏ Ngài luôn hiện diện với Cha, luôn thực hiện chương trình cứu độ mà Cha đã trao cho Ngài. Đức Giê-su đã từng nói: “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5, 17).
Quả vậy, Đức Giê-su Na-da-rét tràn đầy kinh nghiệm sống với Cha và kinh nghiệm hiệp thông trong Thánh Thần. Những kinh nghiệm ấy Ngài muốn chia sẻ với chúng ta. Thánh Gio-an đã quả quyết: “Không ai đã thấy Thiên Chúa bao giờ; nhưng Con Một là Thiên Chúa và là Đấng hằng ở nơi cung lòng Chúa Cha, chính Người đã tỏ cho chúng ta biết” (Ga 1, 18).
Đức Giê-su chia sẻ kinh nghiệm về Chúa Cha
Trong đời sống tại thế của mình, Đức Giê-su không bao giờ tỏ ra là người sống đơn độc, ngay cả khi bị thử thách nhất, lúc cái chết gần kề, Ngài cũng cảm thấy Cha đang có mặt để nghe Ngài than thở: “Cha ơi, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng làm theo ý con, mà xin theo ý Cha” (Lc 22, 42).
Quả thực, trong bất kỳ hoàn cảnh nào và với tâm trạng nào, Đức Giê-su luôn luôn hiện diện với Cha để sống tâm tình của một người con đích thực.
. Ngài luôn vâng lời và trung tín: “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4, 34).
. Ngài quan tâm lo lắng chu toàn bổn phận: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2, 49).
. Ngài được Cha tin tưởng và yêu mến: “Quả vậy, Đấng được Thiên Chúa sai đi thì nói những lời của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa ban Thần Khí cho Người vô ngần vô hạn. Chúa Cha yêu thương Người Con và đã giao mọi sự trong tay Người” (Ga 3, 34-35).
. Ngài tuyệt đối trung thành đường lối của Cha: “Đạo lý tôi dạy không phải là của tôi, nhưng là của Đấng đã sai tôi” (Ga 7, 16).
. Ngài hoàn toàn hy sinh vì sứ vụ: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha mà tôi đã nhận được” (Ga 10, 18).
. Ngài phản ánh cách tuyệt vời dung mạo của Cha: “Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha” (Ga 14, 9).
. Ngài coi trọng tuyệt đối việc thực thi ý Cha: “Phàm ai thi hành ý muốn của Cha tôi, Đấng ngự trên trời, người ấy là anh chị em tôi, là mẹ tôi” (Mt 12, 50).
. Ngài tín thác tuyệt đối nơi Cha: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23, 46).
Riêng thánh Phao-lô đã tóm tắt cách sâu đậm sứ mệnh thiên sai của Đức Giê-su như sau:
“Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2, 6-8).
Kinh nghiệm của Đức Giê-su đã củng cố niềm tin của chúng ta vì sau này, qua Hội thánh Chúa Ki-tô, chúng ta được thừa kế ân huệ làm nghĩa tử thần linh của Chúa Cha trong và nhờ Chúa Ki-tô. Chúng ta cũng được quyền gọi Thiên Chúa là Cha như Đức Giê-su Ki-tô.
Đức Giê-su chia sẻ kinh nghiệm về Thánh Thần
Linh mục Amédée Brunot trong cuốn “Bàn tiệc Khôn ngoan” đã viết như sau: “Thần Khí đã đạt đến mức hoàn hảo trong nhân vị của Chúa Giê-su Nadarét, con người mang Thần Khí một cách tiêu biểu. Được thụ thai trong lòng trinh nữ Ma-ri-a do Thần Khí, được Thần Khí đưa ra mắt hôm chịu thanh tầy ở sông Gio-đan, được Thần Khí hướng dẫn suốt cuộc đời, được Thần Khí mạc khải qua cái chết”. [1]
Thực vậy, Thánh Thần hiện diện với Ngôi-Con-nhập-thể như một sức mạnh nội tại và nguồn lực thâm sâu, thường xuyên và mạnh mẽ. Suốt cuộc đời thực thi sứ vụ thiên sai của mình, Đức Giê-su luôn được nâng đỡ, hướng dẫn, hỗ trợ bởi Thánh Thần, Đấng mà Ngài đã lãnh nhận lúc chịu phép rửa:
“Thần Khí Chúa ngự trên tôi,
Vì Chúa đã xức dầu tôn phong tôi,
Để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn” (Lc 4, 18).
Vì được Thiên Chúa ban Thần Khí vô ngần vô hạn (x. Ga 3, 34), nên Đức Giê-su sung mãn kinh nghiệm sống trong và với Thánh Thần. Ngài cũng muốn chia sẻ cho chúng ta kinh nghiệm hiệp thông với Thánh Thần. Hiệp thông để có sức mạnh hoàn thành sứ mệnh cứu chuộc và hoàn tất cuộc Vượt Qua đầy gian khổ.
. Sức mạnh chống chọi cám dỗ thử thách: “Bấy giờ Đức Giê-su được Thần Khí dẫn vào hoang địa, để chịu quỷ cám dỗ…” (x. Mt 4, 1-11).
. Sức mạnh để chu toàn sứ vụ: “Nếu tôi dựa vào Thần Khí của Thiên Chúa mà trừ quỷ, thì quả là triều đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Mt 12, 28).
. Sức mạnh để tái sinh, đổi mới toàn diện: “Không ai có thể vào Nước Thiên Chúa, nếu không sinh ra bởi nước và Thần Khí” (Ga 3, 5).
. Sức mạnh để bước vào sự thờ phượng Thiên Chúa một cách mới mẻ, chính đáng và chân thật: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
. Sức mạnh để vượt thắng mọi sóng gió nguy nan: “Chính Thầy đây, đừng sợ!” (Ga 6, 20).
. Sức mạnh để yêu mến và tuân giữ các lệnh truyền của Thiên Chúa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha của Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha của Thầy và Thầy sẽ sẽ đến và ở lại với người ấy…Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (x. Ga 14, 22-26).
. Sức mạnh để làm chứng cho sự thật: “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha, Người sẽ làm chứng về Thầy. Cả anh em nữa, anh em cũng làm chứng, vì anh em ở với Thầy ngay từ đầu” (Ga 15, 26-27).
Tôn vinh Chúa Ba Ngôi trong đời sống Ki-tô hữu
Đức Giê-su chẳng những chia sẻ cho ta kinh nghiệm về Ngôi Cha và Thánh Thần, mà Ngài còn ban ơn giúp ta sống trọn vẹn tình nghĩa con thảo với Cha trong Thánh Thần. Chúng ta đang sống thời kỳ hậu-Phục-sinh, nên có đủ ơn huệ dồi dào và điều kiện cần thiết để hiệp thông cách sâu xa với Thiên Chúa Ba Ngôi.
LM A. Brunot cũng đã khẳng định: “Ba Ngôi thần linh muốn sống bên trong mỗi một chúng ta. Thiên đàng của Ba Ngôi chẳng phải là nơi thần thoại nào, nhưng chính là tâm hồn của ta…” [2]
Bản thân và cuộc sống Ki-tô hữu chúng ta, vì đã mặc lấy Đức Ki-tô nên trở thành đền thờ của Thiên Chúa và cũng là của lễ toàn thiêu làm đẹp lòng Thiên Chúa nhất. Chúng ta đã được ơn tái sinh, ơn gia nhập cộng đoàn cứu độ, ơn được làm con cái Thiên Chúa, ơn làm anh em nghĩa thiết với Đức Ki-tô. Với những ơn ấy, chúng ta không ngừng cảm tạ và tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tích cực sống đạo.
Đó là điều mà chính Chúa Giê-su đã truyền dạy: “Chính anh em là ánh sáng cho trần gian…Ánh sáng của anh em phải chiếu dãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha của anh em, Đấng ngự trên trời” (x. Mt 5, 14-16).
“Những công việc tốt đẹp” không gì khác hơn là những hoa trái của một đời sống đạo chân chính và tích cực.
Đó là thi hành trọn vẹn, mọi nơi mọi lúc, thánh ý Thiên Chúa theo ơn gọi của mình.
Đó là nêu gương sáng chứng nhân Ki-tô hữu giữa trần gian.
Đó là thực thi bác ái Ki-tô giáo một cách hoàn hảo và sâu đậm.
Đó là theo gương Chúa Ki-tô và các tông đồ hiến tế đời mình theo lời mời gọi của Tin Mừng
Đó là để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn, vững bước đi theo đường lối của Chúa chỉ dẫn, xứng đáng với tư cách là con cái Thiên Chúa.
Đó là biết đồng cảm với những thao thức của Chúa và Hội thánh, biến những điều đó thành mối quan tâm của chính mình.
Tóm lại, sự tôn vinh Chúa Ba Ngôi sẽ là hoàn hảo và tuyệt vời, khi chúng ta sống đầy ắp tâm tình của Đức Giê-su Ki-tô, khi chúng ta cảm nhận trong tin yêu tình yêu bao la của Cha và khi chúng ta hiệp thông sâu xa trong Thánh Thần ./.
_______________
[1] A. Brunot, diễn giải Lời Chúa CN lễ Hiện Xuống năm A q. I, Editions Salvator, Mulhouse 1980 trang 99
[2] A. Brunot, Sđd trang 104
Aug. Trần Cao Khải